Nguyên Tắc Bắt Người Đang Bị Truy Nã Trong Tố Tụng Hình Sự

manh động, sẵn sàng chống trả quyết liệt khi bị phát hiện, truy bắt. Vì vậy, khi tiến hành truy nã đối tượng phạm tội bỏ trốn, cần phải tăng cường công tác nắm tình hình địa bàn và các đối tượng phạm tội để kịp thời phát hiện sự câu kết, móc nối của các nhóm tội phạm; kịp thời triệt phá, tấn công các nhóm tội phạm, tổ chức truy quét theo tuyến địa bàn, đặc biệt là các địa bàn trọng điểm phức tạp về trật tự, an toàn xã hội. Đây cũng là một đặc điểm của người phạm tội bỏ trốn bị truy nã, vì vậy, các cơ quan có chức năng khi thực hiện công tác truy tìm, truy nã người phạm tội bỏ trốn cần chú ý đến đặc điểm này để tổ chức thực hiện công tác truy nã người phạm tội bỏ trốn đạt hiệu quả cao.

c) Phát hiện những nguyên nhân, thủ đoạn lẩn trốn của người phạm tội để tìm ra các giải pháp khắc phục, hạn chế những nguyên nhân đó và nâng cao hiệu quả truy bắt đối tượng truy nã

Cùng với việc tổ chức truy nã người phạm tội lẩn trốn, các cơ quan bảo vệ pháp luật cần tìm ra nguyên nhân tội phạm lẩn trốn để đưa ra các giải pháp khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý đối tượng. Bên cạnh đó, qua công tác truy nã người phạm tội lẩn trốn để phát hiện những thủ đoạn lẩn trốn, phương thức đối phó với lực lượng truy bắt của người phạm tội bỏ trốn bị truy nã, từ đó rút ra những kinh nghiệm trong công tác quản lý, giam giữ, dẫn giải, thi hành án và công tác tổ chức xác minh, truy tìm, truy bắt đối tượng bỏ trốn để nâng cao hiệu quả công tác bắt người đang bị truy nã và hạn chế số lượng đối tượng bỏ trốn.

1.2. Nguyên tắc bắt người đang bị truy nã trong tố tụng hình sự

Bắt người đang bị truy nã là công việc liên quan đến pháp luật và bảo đảm an toàn tuyệt đối cho người bị bắt cũng như người bắt, lực lượng bắt nên đòi hỏi phải tuân thủ những nguyên tắc sau:

a) Không được ra Quyết định truy nã, Quyết định đình nã và sử dụng các quyết định đó trái với quy định của pháp luật và của Bộ Công an

BLTTHS đã quy định cụ thể về các trường hợp bắt người khác nhau, như: bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt người trong

trường hợp khẩn cấp, bắt bị can, bị cáo để tạm giam… Trong từng trường hợp bắt cụ thể, pháp luật TTHS đã quy định căn cứ, thủ tục, trình tự, thẩm quyền bắt đối với từng trường hợp bắt cụ thể. Đối với trường hợp bắt người phạm tội quả tang và người đang bị truy nã thì mọi công dân đều có quyền bắt và tước vũ khí của người bị bắt; trong các trường hợp bắt khác, việc bắt người chỉ được tiến hành do cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do vậy, việc cơ quan, cá nhân lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn được giao để ra Quyết định truy nã thay lệnh bắt người là hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm các quy định trong công tác của Bộ Công an; việc ra quyết định và sử dụng Quyết định truy nã trái pháp luật có thể gây ra những hậu quả khác như làm oan người vô tội, bỏ sót tội phạm, vi phạm quyền tự do của công dân, làm giảm uy tín của lực lượng Công an...

b) Truy nã phải đúng người, đúng hành vi phạm tội mà đối tượng đã gây ra, đảm bảo tính khách quan, chính xác và quyền tự do, dân chủ của công dân

Công tác truy nã người phạm tội là một trong những hoạt động của cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật TTHS. Việc thực hiện đúng quy định của pháp luật trong hoạt động truy nã người phạm tội lẩn trốn là một nguyên tắc quan trọng, xuyên suốt trong công tác truy nã. Thực hiện nguyên tắc này là thực hiện sự bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong hoạt động truy nã người phạm tội lẩn trốn, các cơ quan có thẩm quyền chỉ được ban hành Quyết định truy nã đối với những người là bị can, bị cáo, bị án, phạm nhân đang lẩn trốn sau khi đã xác định được chính xác tên, tuổi, nơi cư trú, đặc điểm để nhận dạng, ảnh và những thông tin cơ bản khác theo quy định của pháp luật. Những thông tin về đối tượng truy nã cần đảm bảo chính xác, dễ xác định, để nhờ đó mà các cơ quan chức năng và quần chúng nhân dân có thể phát hiện ra manh mối của đối tượng truy nã đang lẩn trốn và xác định đúng đối tượng đang bị truy nã để tiến

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.

hành bắt giữ kịp thời. Đây là yếu tố rất quan trọng, giúp cho việc tổ chức truy nã được thuận lợi, chính xác, tránh oan sai.

c) Phải có kế hoạch, phương án truy bắt và tiến hành khẩn trương, nhanh chóng, kịp thời, thận trọng; đảm bảo tuyệt đối an toàn tính mạng, sức khoẻ cho lực lượng tham gia truy bắt và quần chúng nhân dân; đảm bảo an toàn tài sản của Nhà nước, tập thể và công dân

Biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã trong tố tụng hình sự Việt Nam - 3

Trong công tác truy nã người phạm tội bỏ trốn, đặc điểm rõ nét nhất là người bị truy nã luôn luôn tìm mọi cách để nhanh chóng lẩn trốn, che dấu hành vi phạm tội của mình để lẩn tránh sự trừng trị của pháp luật. Vì vậy, khi phát hiện người phạm tội bỏ trốn, các cơ quan chức năng cần khẩn trương xây dựng kế hoạch, phương án truy bắt và tổ chức lực lượng tiến hành xác minh, truy bắt nhanh chóng, kịp thời, thận trọng. Bên cạnh đó, người phạm tội đang bị truy nã luôn sử dụng mọi cách để có thể đối phó với các cơ quan bảo vệ pháp luật, phần lớn những đối tượng bị truy nã thường là những đối tượng có tiền án, tiền sự, côn đồ, hung hãn; khi lẩn trốn thường rất ngoan cố và manh động. Từ đặc điểm đó, việc tổ chức bắt người đang bị truy nã là một công việc rất khó khăn, nguy hiểm, đòi hỏi phải được xây dựng kế hoạch chặt chẽ, chi tiết, phải tính toán hết những khả năng có thể xảy ra trong việc xác minh, truy tìm, truy bắt người đang bị truy nã để đảm bảo tuyệt đối an toàn tính mạng, sức khoẻ cho lực lượng tham gia truy bắt và quần chúng nhân dân; đảm bảo an toàn tài sản của Nhà nước, tập thể và công dân, hạn chế đến mức thấp nhất những hậu quả xấu có thể xảy ra; đồng thời, đảm bảo cho công tác bắt người đang bị truy nã được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả.

d) Sử dụng tổng hợp các biện pháp mà pháp luật cho phép và các biện pháp nghiệp vụ của ngành Công an, các phương tiện nghiệp vụ để phát hiện, truy bắt và vận động đầu thú các đối tượng truy nã có hiệu quả

Truy nã tội phạm là hoạt động TTHS được tiến hành công khai, tuy nhiên việc tổ chức thực hiện bắt người đang bị truy nã phải sử dụng đồng thời các biện pháp nghiệp vụ của ngành Công an.

Truy nã tội phạm là hoạt động TTHS được tiến hành công khai thể hiện ở chỗ, hoạt động này được quy định rõ ràng trong BLTTHS. Điều 161 BLTTHS năm 2003 quy định: "Quyết định truy nã được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để mọi người phát hiện, bắt, giữ người bị truy nã"; Điều 82 BLTTHS năm 2003 quy định: "Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát (VKS) hoặc Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến Cơ quan điều tra (CQĐT) có thẩm quyền"[4]. Tuy nhiên, trên thực tế, để tổ chức bắt được người đang bị truy nã là một công việc hết sức khó khăn, mất nhiều công sức, đòi hỏi phải áp dụng nhiều biện pháp công tác nghiệp vụ của lực lượng CAND mới bắt được những đối tượng bỏ trốn.

Bên cạnh việc sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của ngành Công an, các cơ quan có chức năng cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, các tổ chức, các cấp, các ngành và mọi công dân trong công tác truy nã tội phạm. Sự phối hợp giữa các lực lượng trong CAND và các cơ quan bảo vệ pháp luật khác với công dân trong việc truy bắt đối tượng truy nã vừa là trách nhiệm và xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi thực tiễn của công tác bắt người đang bị truy nã. Phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tổ chức thực hiện công tác truy nã tội phạm nói riêng, lực lượng CAND phải huy động và phát huy, sử dụng sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, các tổ chức, các cấp, các ngành và mọi cá nhân công dân trong công tác truy nã tội phạm. Trên cơ sở phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, các tổ chức, các cấp, các ngành và mọi cá nhân công dân sẽ đảm bảo cho công tác truy nã tội phạm được thông suốt, nhịp nhàng, thuận lợi trong tất các các bước, các hoạt động cụ thể; đảm bảo cho công tác truy nã tội phạm đạt hiệu quả cao, đồng thời góp phần cho việc xây dựng được thế trận an ninh nhân dân vững chắc trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm.

d) Việc sử dụng vũ lực, công cụ hỗ trợ, vũ khí để trấn áp đối tượng truy nã trong khi bắt giữ phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật

Trong khi tiến hành công tác bắt người phạm tội đang lẩn trốn bị truy nã, pháp luật cho phép lực lượng CAND được sử dụng vũ lực, công cụ hỗ trợ, vũ khí để trấn áp đối tượng truy nã khi tổ chức bắt giữ. Tuy nhiên, khi xây dựng kế hoạch bắt giữ đối tượng bị truy nã, các cơ quan chức năng cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng về nhân thân, đặc điểm tâm lý, địa bàn ẩn náu… của đối tượng để bố trí lực lượng và phương tiện nghiệp vụ cho phù hợp. Đối với những đối tượng côn đồ, hung hãn, manh động, ngoan cố thì phải sử dụng các biện pháp mạnh để trấn áp; đối với những đối tượng khác thì phải tính toán kỹ lưỡng trong việc sử dụng vũ lực, công cụ hỗ trợ, vũ khí. Việc sử dụng vũ khí và công cụ hỗ trợ phải tuân thủ các quy định của pháp luật, nghiêm cấm việc lạm dụng sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ khi tiến hành bắt giữ đối tượng phạm tội lẩn trốn; việc sử dụng vũ lực, công cụ hỗ trợ, vũ khi khi tiến hành bắt giữ đối tượng phạm tội lẩn trốn phải được tiến hành thận trọng, hạn chế tối đa những nguy hiểm, những ảnh hưởng đối với lực lượng truy bắt và quần chúng nhân dân.

1.3. Cơ sở pháp lý của công tác bắt người đang bị truy nã trong pháp luật tố tụng hình sự

Cơ sở pháp lý của công tác bắt người đang bị truy nã là những quy định của pháp luật TTHS mà dựa vào đó, các cơ quan có thẩm quyền và những lực lượng có chức năng tiến hành các hoạt động tìm kiếm, bắt giữ người phạm tội đang lẩn trốn theo quyết định truy nã, lệnh truy nã của cơ quan có thẩm quyền. Như vậy, cơ sở pháp lý của việc bắt người đang bị truy nã là hệ thống các quy định của pháp luật về truy nã người phạm tội lẩn trốn, là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động tìm kiếm, bắt giữ người phạm tội lẩn trốn theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.

Cơ sở pháp lý của việc bắt người đang bị truy nã gồm những quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, của liên ngành và của Bộ Công an qua các giai đoạn, trong đó có thể kể đến các văn bản sau:

- Ngay sau khi giành được chính quyền năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ban hành Sắc lệnh số 23-SL ngày 21-2-1946 về việc thành lập Việt Nam Công an vụ, trong đó quy định rõ về nhiệm vụ của Việt Nam Công an vụ: "… Truy tìm người, can phạm để giúp Toà án trong sự trừng trị." [23]; Sắc luật số 002/SL ngày 18-6-1957, quy định người đang có lệnh truy nã, người đang bị giam giữ mà lẩn trốn được coi là phạm pháp quả tang, người công dân nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến Uỷ ban hành chính, TAND hoặc đồn Công an nơi gần nhất [24].

- BLHS năm 1985 quy định về truy nã người phạm tội lẩn trốn tại các điều 45, 46.

- BLTTHS năm 1988, vấn đề truy nã tội phạm được quy định rải rác trong các điều: 64, 65, 68, 94, 115, 135, 136, 141, 143b, 162.

- Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự (PLTCĐTHS) năm 1989, truy nã người phạm tội lẩn trốn được quy định tại Điều 22.

- Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1992, Điều 71 đã quy định: "Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.

Không ai bị bắt nếu không có quyết định của TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật…" [9].

- BLHS năm 1999 quy định về truy nã người phạm tội lẩn trốn tại các điều 23, 55.

- BLTTHS năm 2003, truy nã người phạm tội lẩn trốn được quy định tại các điều 34, 36, 38, 49, 50, 80, 82, 83, 86, 88, 112, 140, 160, 161, 169, 187,

256, 260.

- Triển khai thực hiện các quy định trên, liên ngành TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành, như: Thông tư số 02/TTLN ngày 12-01-1989 liên ngành TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS; Thông tư liên ngành số 05/TTLN ngày 02-6-1990 của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an), VKSNDTC, TANDTC, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành chính sách đối với người phạm tội ra tự thú; Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 07-01-1995 của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) hướng dẫn một số quy định về truy nã bị can, bị cáo trong giai đoạn truy tố và xét xử; Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 07-9-2005 của VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003…

- Bộ Công an cũng đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện công tác truy nã người phạm tội lẩn trốn trong ngành Công an như: Chỉ thị số 10/CT-BNV ngày 23-5-1986 về việc tổ chức truy bắt lại đối tượng trốn trại cải tạo, trại tạm giam, nhà tạm giữ; Quy định số 09/QĐ/BNV(C14) ngày 30- 5-1986 về công tác truy nã tội phạm hình sự; Quy định số 207/QĐ-BNV ngày 14-12-1990 bổ sung công tác truy nã tội phạm trong lực lượng CAND; Thông tư số 03/TT-BNV(C11) ngày 11-4-1997 hướng dẫn việc truy nã người bị phạt tù và bị cáo đang được tại ngoại bỏ trốn; Quyết định số 465/1998/QĐ- BCA(V22) ngày 31-7-1998 về chế độ quản lý và sử dụng kinh phí truy nã trong lực lượng CAND; Quyết định số 437/1999/QĐ-BCA(C11) ngày 04-8- 1999 về phối hợp và trao đổi thông tin tội phạm giữa cơ quan hồ sơ nghiệp vụ với các đơn vị nghiệp vụ trong lực lượng CSND; Thông tư số 12/2004/TT- BCA(V19) ngày 23-9-2004 hướng dẫn thi hành một số quy định của PLTCĐTHS năm 2004 trong CAND; Quyết định số 1385/2007/QĐ- BCA(C11) ngày 12-11-2007 ban hành Quy chế về công tác truy nã; Quyết định số 1565/2007/QĐ-BCA(V22) ngày 10-12-2007 quy định quản lý và sử

dụng kinh phí truy nã trong lực lượng CAND... Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công an cũng ban hành theo thẩm quyền nhiều quy định, công văn và kế hoạch để hướng dẫn và triển khai thực hiện công tác bắt người phạm tội đang bị truy nã trong toàn lực lượng.

Xem tất cả 103 trang.

Ngày đăng: 31/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí