Tăng Cường Kiểm Tra Hoạt Động Áp Dụng Pháp Luật Của Cơ Quan Tiến Hành Tố Tụng

nào. Đối với trường hợp đặt tài sản để đảm bảo là không khả thi do để áp dụng hình thức này cần nhiều thủ tục như thành lập Hội đồng định giá để xác định giá trị tài sản để bảo đảm, xác minh nguồn gốc tài sản, thủ tục lưu giữ, bảo quản tài sản... vì vậy nên bỏ phần này mà chỉ áp dụng biện pháp là đặt tiền để bảo đảm trong pháp luật tố tụng hình sự.

Thứ hai: Cần tiếp tục tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật theo hướng làm thay đổi cách nghĩ, cách nhìn của nhân dân đối với pháp luật.

Để làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần có sự tìm hiểu về thái độ của người dân đối với pháp luật, họ hiểu pháp luật như thế nào? Pháp luật có vai trò gì trong cuộc sống của họ?... Có thể nói, phần lớn người dân thường cho rằng “pháp luật” là những mệnh lệnh mà người ta cần phải tuân thủ, là hình phạt, là trừng trị… người khác thì cho rằng, pháp luật chỉ là để giải quyết các tranh chấp. Người dân thường chỉ quan tâm tới pháp luật khi bản thân họ phải rơi vào tình thế sự việc miễn cưỡng, lợi ích bị xâm hại… dính líu tới pháp luật (kiện cáo, tranh chấp, bị phạt, bị cưỡng chế…). Bởi vậy, khi tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cần giải thích, phân tích cho người dân hiểu được rằng pháp luật không chỉ bao gồm các quy định cưỡng chế, thực thi pháp luật, biện pháp giải quyết tranh chấp. Pháp luật còn bao gồm các quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, khuyến khích sự giao dịch lành mạnh giữa các thành viên trong xã hội vì sự phát triển và bảo đảm trật tự ổn định. Pháp luật là một môi trường thuận lợi tạo điều kiện cho con người giao dịch với nhau trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo đảm cho các thành viên trong xã hội phụ thuộc và gắn bó với nhau một cách hợp lý.

Thứ ba: Tăng cường hơn nữa quyền tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân vào các dự án luật.

Việc tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân vào dự án luật có tác

dụng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật rất lớn và có hiệu quả. Thông qua lấy ý kiến vào quá trình xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật có tác dụng tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho người dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, bồi dưỡng tình cảm, ý thức về trách nhiệm pháp lý và khả năng tiến hành các hành vi pháp lý đúng đắn, chính xác. Đồng thời, qua hoạt động này, sẽ giúp cho nhân dân nâng cao ý thức pháp luật. Như vậy, mọi người sẽ hiểu được về giá trị xã hội và pháp luật. Có thể nói, thái độ chấp hành hay không chấp hành của người dân đối với pháp luật là kết quả của sự am hiểu pháp luật. Mặt khác cũng thấy rằng con người chấp hành pháp luật một cách tự giác, nghiêm chỉnh một khi họ có thái độ đúng đắn đối với pháp luật.

Thứ tư: Cung cấp đầy đủ, có hệ thống thông tin pháp luật trong từng lĩnh vực để phục vụ cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

- Bên cạnh việc thực hiện có hiệu quả các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật truyền thống, cần quan tâm khai thác có hiệu quả các văn bản pháp luật cập nhật, lưu trữ trên mạng tin học diện rộng của Chính phủ, mạng Internet. Xây dựng và đưa vào sử dụng rộng rãi các cơ sở dữ liệu pháp luật điện tử; tiếp tục củng cố và phát triển các hệ thống thông tin pháp luật phù hợp tại các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp.

- Nâng cao khả năng hợp tác giữa các cơ quan, tổ chức làm công tác thông tin pháp luật tạo thành mạng lưới thông tin pháp luật thống nhất từ Trung ương đến địa phương thực hiện việc tổ chức, quản lý và cung cấp thông tin pháp luật.

- Hình thành các cơ quan đầu mối làm nhiệm vụ cung cấp thông tin pháp luật Việt Nam phục vụ nhu cầu trong nước, trong khu vực và thế giới phù hợp với những cam kết quốc tế của Việt Nam về minh bạch hoá pháp luật, trao đổi thông tin pháp luật…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 90 trang tài liệu này.

Thứ năm: Kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật.

Trong các hoạt động, các quyết định thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của mình, các cơ quan nhà nước mà trực tiếp là các cán bộ, công chức nhà nước là người tổ chức thực hiện các quy định pháp luật, xử lý vi phạm pháp luật đồng thời, thông qua thực thi công vụ kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm giúp cho đối tượng được áp dụng pháp luật hiểu rõ nội dung, ý nghĩa của các quy định pháp luật được áp dụng hoặc các quy định có liên quan, hiểu và ý thức được về quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình, từ đó tự nguyện chấp hành nghiêm túc các quyết định áp dụng pháp luật nói riêng và chấp hành pháp luật nói chung, hình thành niềm tin pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.

Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong Tố tụng hình sự - 9

Thứ sáu: Kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật với trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật và hoà giải ở cơ sở.

Phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật và hoà giải ở cơ sở có mối quan hệ mật thiết trong việc xây dựng ý thức pháp luật, tăng cường sự hiểu biết pháp luật, khuyến khích thói quen ứng xử xã hội bằng pháp luật trong nhân dân. Để nâng cao hiệu quả, phát huy thế mạnh của các hình thức trên, chúng ta cần đưa yêu cầu thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật khi tiến hành trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật vào Quy chế hoạt động của các đoàn luật sư, Trung tâm tư vấn, Trợ giúp pháp lý. Hình thành trách nhiệm tự giác thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật cho đối tượng, cho khách hàng khi trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật; nâng cao chất lượng, hiệu quả và mở rộng đối tượng, phạm vi hoạt động trợ giúp pháp lý lưu động để bảo đảm mọi người dân đều có khả năng được hưởng dịch vụ này khi cần thiết.

Đồng thời, khai thác và phát huy tác dụng, hiệu quả của hình thức trợ giúp pháp lý, luật sư, tư vấn pháp luật, hoà giải cơ sở khi thực hiện phổ biến,

giáo dục pháp luật. Thực hiện giải thích, hướng dẫn, phổ biến kiến thức pháp luật liên quan đến từng vụ việc cụ thể đang trợ giúp, tư vấn cho đối tượng, giúp họ nâng cao hiểu biết pháp luật, tự điều chỉnh hành vi xử sự phù hợp với quy định của pháp luật, tự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

3.2.2.2. Tăng cường kiểm tra hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng

Hoạt động tố tụng hình sự có ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền của con người, ảnh hưởng đến việc bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và các lợi ích khác của Nhà nước, của các tổ chức, cá nhân. Xuất phát từ sự nhạy cảm và tính chất quan trọng như vậy, nên pháp luật không giao thẩm quyền cho một cơ quan thực hiện toàn bộ quá trình chứng minh và xử lý tội phạm, mà phân ra thành nhiều giai đoạn: điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Mỗi giai đoạn tố tụng tương ứng với thẩm quyền của một cơ quan

Để bảo đảm cho hoạt động tố tụng được khách quan, có căn cứ và hợp pháp, Bộ luật Tố tụng Hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định mối quan hệ phối hợp và quan hệ chế ước khi thực hiện các hoạt động tố tụng. Đây là mối quan hệ biện chứng, bảo đảm cho hoạt động tố tụng được kịp thời, khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, do đó nếu thực hiện không tốt tất sẽ ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả hoạt động tố tụng

Quan hệ phối hợp là sự hỗ trợ cùng thực hiện các hoạt động tố tụng để giải quyết vụ án được kịp thời theo chức năng, nhiệm vụ được giao, cùng nhau hướng đến mục đích chung là chứng minh và xử lý tội phạm; quan hệ chế ước là sự tác động khống chế, kiềm chế lẫn nhau, bảo đảm cho hoạt động tố tụng được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. Sự kiểm soát thể hiện qua việc kiểm tra, giám sát, phát hiện các sai sót, thiếu sót để khắc phục. Cụ thể, Viện kiểm sát đề ra các yêu cầu điều tra đối với cơ quan điều tra; viện kiểm sát, tòa án cấp sơ thẩm trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung; tòa án cấp

phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại… Quan hệ phối hợp và chế ước không chỉ được thể hiện giữa các cơ quan thuộc các hệ thống cơ quan tố tụng khác nhau mà còn thể hiện ngay trong một hệ thống cơ quan, giữa các cấp tố tụng (giữa cấp phúc thẩm và sơ thẩm), giữa các bộ phận, giữa các chức danh ngay trong nội bộ một cơ quan.

Thực tiễn hoạt động tố tụng cho thấy, có nhiều nơi các cơ quan tiến hành tố tụng chưa tạo được sự cân bằng, hợp lý và thực chất trong việc thực hiện quan hệ phối hợp và chế ước: hoặc quá coi trọng quan hệ phối hợp mà quên đi trách nhiệm chế ước; quá nặng nề về chế ước dẫn đến đối đầu, cản trở, gây khó khăn cho nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ. Biểu hiện của sự phối hợp quá mức đó là sự cả nể, bao che, bỏ qua cho nhau về những sai sót nghiệp vụ. Khi được hỏi về mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp ở địa phương, thủ trưởng cơ quan điều tra không ngần ngại trả lời rằng: mối quan hệ giữa các cơ quan tư pháp tại địa phương quá tốt; nếu có sai sót đều được viện kiểm sát và tòa án cho phép sửa chữa, bổ sung hồ sơ nên trong năm qua không có vụ án nào phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung; những vụ án phức tạp đều được bàn bạc thống nhất quan điểm… Thực tế, ít ai nói ra điều này nhưng đây là một sự thật đang tồn tại trong hoạt động tố tụng tại nhiều địa phương. Xuất phát từ sự cả nể, sợ ảnh hưởng đến thành tích của “cơ quan bạn” nên nhiều tòa án địa phương không trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định của pháp luật mà sẵn sàng cho phép viện kiểm sát, Cơ quan điều tra hợp thức hóa hồ sơ đối với những sai sót. Sự dễ dãi của các cơ quan tố tụng không chỉ ảnh hưởng đến tính hợp pháp của các chứng cứ mà gây tác hại sâu xa hơn, đó là không tạo được cơ chế buộc những người tiến hành tố tụng (nhất là các điều tra viên) phải không ngừng học hỏi nâng cao trình độ, rèn luyện tính cẩn trọng trong công tác mà còn tạo ra sức ỳ trong quá trình cải cách tư pháp. Sự phối hợp quá mức còn thể hiện ở sự thụ động, ỷ lại vào quan điểm khởi tố,

truy tố, quan điểm thống nhất tại các cuộc họp liên ngành về đường lối giải quyết các vụ án. Có người băn khoăn, cùng một vụ án, cùng một hồ sơ các cơ quan tố tụng lại có quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau và cho đó là sự bất bình thường. Tuy nhiên, trong nền tư pháp hiện đại, nếu các cơ quan tố tụng luôn luôn đồng nhất quan điểm thì đó mới là điều bất bình thường và là nguyên nhân dễ dẫn đến oan sai. Sự đối lập, chế ước là con đường dẫn đến sự thật chân lý trong tố tụng. Điều quan trọng đó là quan điểm phản biện, chế ước phải xuất phát từ nền tảng tri thức pháp lý và không thoát ly quy định của pháp luật. Trái ngược với việc phối hợp quá mức là sự chế ước vặt vãnh, bắt bẻ nhau từng câu, từng chữ trong các văn bản tố tụng; đấu khẩu không ai chịu thua ai trong các cuộc họp liên ngành

Nguyên nhân của thực trạng này trước hết là do trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ tư pháp còn hạn chế. Thực tế, nếu trình độ năng lực của những người tiến hành tố tụng hạn chế thường dẫn đến hai xu hướng: hoặc không thể hiện được quan điểm độc lập mà lệ thuộc vào kết quả điều tra (đối với kiểm sát viên), vào kết quả truy tố (đối với thẩm phán); không đủ khả năng để phát hiện được các sai sót trong giai đoạn tố tụng trước đó; không có quan điểm nhận thức, đánh giá rõ ràng về những tình huống pháp lý phức tạp. Hoặc, sa vào chủ nghĩa bảo thủ không nhận thấy được những sai sót mà người khác hoặc cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm chỉ ra để rồi nhiều vụ án phải xoay vòng qua nhiều cấp xét xử. Nguyên nhân thứ nữa là do yếu tố phẩm chất, đạo đức của những người tiến hành tố tụng. Sự bảo thủ trong nhận thức pháp luật trong nhiều trường hợp xuất phát từ những lợi ích riêng tư. Mức độ phối hợp hay chế ước nhiều khi lại xuất phát từ yếu tố tình cảm riêng tư, sự cả nể, đố kỵ; phụ thuộc vào sự hợp gu hay khắc tính của các lãnh đạo cơ quan tư pháp địa phương…

Như vậy, việc quá thiên về phối hợp hoặc quá thiên về chế ước không

đúng lúc, đúng chỗ, thiếu căn cứ đều đi lệch quỹ đạo của chuẩn mực pháp lý, sẽ là một trong những nguyên nhân dẫn đến oan, sai. Do đó, công tác cải cách tư pháp không thể xem nhẹ vấn đề này

3.2.3. Giải pháp tăng cường đội ngũ cán bộ, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức pháp luật và trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ thực thi pháp luật

- Đề cao kỷ luật, kỷ cương trong các hoạt động của các cơ quan nhà nước, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động thanh tra công chức, công vụ. Đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Bảo đảm mọi hành vi tham nhũng phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh theo pháp luật.

- Bảo đảm số lượng và chất lượng nguồn nhân lực cán bộ, công chức làm công tác pháp luật. Đổi mới công tác quản lý nhà nước đối với việc đào tạo cán bộ luật, xây dựng Trường Học Viện, Đại học và các trường trọng điểm về đào tạo cán bộ luật. Bồi dưỡng, cập nhật thường xuyên kiến thức pháp luật cho cán bộ quản lý hành chính nhà nước, đặc biệt là đội ngũ cán bộ pháp chế của các bộ, ngành. Đổi mới công tác đào tạo các chức danh tư pháp đáp ứng yêu cầu sử dụng, luân chuyển các chức danh tư pháp, hành pháp. Chú trọng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho các cán bộ tiến hành tố tụng hình sự. Nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, hiện đại hoá trang thiết bị trong các cơ sở đào tạo pháp luật, đào tạo.

Để hoàn thiện được hệ thống cán bộ thực thi pháp luật cần làm tốt các vấn đề sau:

- Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ chức năng trong quá trình tiến hành tố tụng.

Nhận thức pháp luật và ý thức pháp luật có quan hệ mật thiết với nhau. Có nhận thức đúng, thì chấp hành mới đúng và ngược lại chấp hành đúng

pháp luật chỉ có thể khi có nhận thức đúng. Trong tố tụng hình sự, hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị bảo đảm cũng như nhiều hoạt động khác do Điều tra viên trực tiếp thực hiện nên việc nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức pháp luật, cũng như đạo đức nghề nghiệp cho Điều tra viên có ý nghĩa quan trọng để nâng cao hiệu quả của hoạt động tố tụng nói chung và sử dụng BPNC nói riêng. Công việc ấy cần theo các nội dung sau:

+ Cần xác định tư tưởng "trọng chứng cứ hơn trọng cung" cho điều tra viên để khắc phục tình trạng "bắt thay cho điều tra";

+ Tổ chức cho tất cả cán bộ làm công tác điều tra tội phạm học tập nghiên cứu các quy định về áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong bộ luật Tố tụng hình sự;

Bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho Công an cơ sở là nhu cầu cần thiết và nên theo những nội dung sau:

+ Bồi dưỡng kiến thức pháp luật về các loại vi phạm: hành chính, hình sự, dân sự, kinh tế, đất đai, nhưng quan trọng nhất là phân biệt được vi phạm hành chính và vi phạm hình sự;

+ Bồi dưỡng kiến thức về lập biên bản có những nội dung cần thiết phải được thể hiện trong đó; biên bản tạm giữ tang vật phạm tội; biên bản tạm giữ người; lấy lời khai người bị bắt, người bị hại; thủ tục dẫn giải người bị bắt; biên bản bàn giao người bị bắt;

+ Bồi dưỡng kiến thức pháp luật về quản lý đối tượng bị áp dụng BPNC cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh; đặt tiền hoặc tài sản có giá trị bảo đảm

Quan tâm đào tạo Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán theo chương trình cử nhân luật học thuộc chương trình chính quy để có chất lượng đào tạo tốt hơn.

Bồi dưỡng kiến thức cơ bản về pháp luật cho Hội thẩm để có cơ sở,

Xem tất cả 90 trang.

Ngày đăng: 11/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí