đan lát, làm mộc, làm cao chàm nhuộm vải, rèn và sửa chữa nông cụ.
* Thứ hai, phân công lao động trong gia đình
Sản xuất, trước tiên là trách nhiệm của hai thành viên sáng lập ra gia đình là chồng và vợ (bố, mẹ) và sau đó là của các thành viên khác (con cái). Trong sản xuất, tuy không thật sự rò ràng nhưng đã có sự phân công lao động ở mức độ nhất định giữa các thành viên.
Thông thường, nam giới đảm nhiệm các công việc nặng nhọc như chặt cây, cày bừa, cải tạo nguồn nước, khai phá ruộng nương mới và săn bắn, đánh cá. Phụ nữ đảm nhận các công việc như gieo trồng, làm cỏ, bón phân, thu hái, làm vườn…Họ còn đảm nhận thêm công việc là người nội trợ trong gia đình như giặt giũ, nấu nướng, chăm sóc con cái…
Trẻ em cũng tham gia vào lao động tùy vào khả năng như nhặt cỏ, phơi thóc, giúp cha mẹ trông em…Việc trẻ em tham gia vào lao động sớm ngoài tác dụng chia sẻ một số công việc cho người lớn còn có tác dụng học việc. Trong quá trình này, trẻ em được ông bà, cha mẹ và các những người lớn trong gia đình dạy cho các kỹ năng trong lao động và đức tính cần cù chịu khó. Vì vậy, chỉ khoảng 13- 14 tuổi, các em hầu như đã thành thạo mọi công việc.
Trong lao động sản xuất, người chủ gia đình (đàn ông), là người tổ chức, điều hành sản xuất và phân công lao động cho mọi thành viên.
* Thứ ba, phương thức chi tiêu
Để duy trì cuộc sống, gia đình sử dụng rất nhiều loại sản phẩm từ đồ ăn thức uống, quần áo, nhà ở, phương tiện đi lại…Vì vậy, tiêu dùng là một trong những nội dung quan trọng trong chức năng kinh tế của gia đình, chất lượng tiêu dùng phụ thuộc vào chất lượng sản xuất của gia đình. Trong xã hội truyền thống của người Dao Quần Trắng ở địa bàn nghiên cứu, chi tiêu chủ yếu của gia đình là lo ăn, mặc, xây dựng nhà cửa và tổ chức các công việc trọng đại trong gia đình như cưới xin, ma chay, cấp sắc.
“Chúng tôi làm chủ yếu để phục vụ cho việc ăn uống, may mặc, làm nhà ở và chi tiêu vào các nghi lễ, tốn nhất là đám chay và đám cưới. Các cháu trước đây có đi học đâu mà phải chi”. (B.V.T, nam, 67 tuổi).
3.2.2.1. Biến đổi chức năng kinh tế của gia đình
Từ sau Đổi mới đến nay, chức năng kinh tế của gia đình người Dao Quần Trắng trên địa bàn đã có sự thay đổi nhất định. Sự thay đổi đó được thể hiện trên các bình diện sau:
* Thứ nhất, trên lĩnh vực kiếm sống và tạo thu nhập của gia đình
Nông nghiệp vẫn được duy trì, phát triển và vẫn đóng vai trò chủ đạo trong
kinh tế gia đình. Tuy nhiên, hiện nay đồng bào đã đẩy mạnh việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất như máy móc (máy cày, máy tuốt), giống mới, thuốc trừ sâu, kỹ thật gieo trồng và chăn nuôi…làm cho năng suất cây trồng và sản lượng chăn nuôi tăng đáng kể. Đặc biệt là trong chăn nuôi, ngoài các giống trâu, bò, lợn, gà do Nhà nước và các tổ chức hỗ trợ, nhiều gia đình đã chuyển sang chăn nuôi các động vật hoang dã theo hướng “đặc sản” như nuôi nhím, dúi, lợn ta (lợn mán), cầy hương…
“Thôn này ngoài một số gia đình được nhận giống mới từ dự án (trâu, bò lợn), có một số gia đình chuyển sang nuôi các giống đặc sản như dúi, nhím, lợn ta. Kể ra làm cái này nhàn mà bán giá thành lại cao” (T.V.T, nam, 27 tuổi, trưởng thôn).
“Nhà em bây giờ nuôi dúi, em thấy nuôi giống này rất dễ, không có bệnh gì cả, hàng ngày chỉ vứt cho mấy cái ngô và mấy đoạn tre là xong. Loại này bán cũng dễ mà giá lại cao, những đôi dúi giống khoảng gần một triệu/đôi, còn dúi con thì khoảng 200 nghìn/đôi. Nuôi thêm cái này để có tiền chứ anh thấy đấy, nhà em có mấy ruộng nương đâu”. (B.V.T, nam, 30 tuổi).
Cùng với nông nghiệp, khai thác thủy sản ở hồ Thác Bà cũng đem lại nguồn sống không nhỏ cho nhiều gia đình. Quan sát trên địa bàn, chúng tôi thấy hầu hết các gia đình đều có người đi hồ khai thác thủy sản. Ngoài một số gia đình chuyển hẳn sang đánh bắt cá ở hồ còn là đi theo thời vụ. Tuy nhiên, trong hai năm trở lại đây, khi mặt nước hồ được đưa về Công ty thủy điện Thác Bà quản lý thì họ đã cấm nhân dân đánh bắt cá.
“Tôi đánh bắt cá ở hồ Thác Bà mấy chục năm rồi, bây giờ già rồi không đi nữa. Trước đây cá nhiều lắm, nhưng giá rất rẻ, bây giờ nhiều người đánh quá, họ còn đánh cả bằng mìn nên cá ít đi. Hai thằng con trai và một thằng con rể nhà tôi nó cũng làm nghề này. Nói thật là đi đánh trộm thôi, hôm nào Công ty đi qua bắt được là họ thu lưới đấy”. (B.V.K,nam 56 tuổi).
Một trong những nguồn tạo thu nhập khá lớn cho kinh tế gia đình hiện nay là đi làm thuê. Trên địa bàn xã và các khu vực xung quanh đã có nhiều doanh nghiệp đầu vào các ngành như khai thác chế biến chè, khai thác chế biến gỗ và khai thác đá. Có một đặc điểm là những lao động làm thuê không có một nghề cố định, họ chủ yếu lao động chân tay theo yêu cầu của chủ như khai thác gỗ, khai thác đá, hái chè, bốc vác. Mỗi ngày, các lao động làm thuê, tùy theo mức độ và tính chất của công việc sẽ được chủ lao động trả từ 100 đến 200 ngàn đồng một người.
“Chồng em đi làm thuê quanh năm, không có việc gì cố định cả, cứ có việc
gì làm việc đấy nhưng thường xuyên nhất là khai thác gỗ. Mỗi ngày cũng được hơn trăm nghìn. Ngoài tiền đó ra không có gì thêm, lúa ngô cũng chỉ đủ ăn và chăn nuôi thôi” (T.T.N, nữ, 26 tuổi).
“Chồng em đi làm thuê suốt, em thì thỉnh thoảng có việc gì nhẹ và ở gần thì đi vài ngày vì còn phải lo cho con và các công việc khác. Anh thấy đấy, ở đây không đi làm thuê thì làm gì có tiền để tiêu hàng ngày” (L.T.H, nữ, 29 tuổi).
Như vậy, có thể thấy trong lĩnh vực kiếm sống và tạo thu nhập của gia đình, cơ cấu ngành nghề không có nhiều thay đổi. Ngoài nguồn thu nhập từ làm thuê và chăn nuôi, kinh tế của gia đình vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp.
* Thứ hai: Trên lĩnh vực phân công lao động gia đình
Cùng với những biến chuyển trong cơ cấu nghề nghiệp và sự gia tăng của đội ngũ nam giới đi làm thuê thì sự phân công lao động trong gia đình cũng có sự biến chuyển nhất định. Nếu như trước đây, nam giới thường gánh vác các công việc nặng nhọc của gia đình thì hiện nay, do họ đi làm thuê nên những công việc đó chuyển sang vai người phụ nữ và các thành viên khác. Người phụ nữ ở nhà phải đảm nhận nhiều công việc hơn, kể cả các công việc nặng nhọc.
“Thôn này bây giờ con trai khỏe mạnh đi làm thuê nhiều lắm, chồng em cũng đi làm nên mọi công việc ruộng nương đều do phụ nữ bọn em đảm nhận. Cũng vất vả nhưng chẳng biết làm thế nào, nếu anh ấy không đi làm thuê thì làm gì có tiền để tiêu” (Đ.T.D, nữ, 28 tuổi).
Quan sát thực tế, chúng tôi thấy rằng, đã có sự chia sẻ trong các công việc của gia đình giữa người chồng với người vợ. Ngày nay, nam giới cũng tham gia nhiều vào các công việc như chăm sóc con cái, người già, người ốm và cả các công việc nội trợ đặc biệt khi người phụ nữ vắng nhà.
“Chồng em thỉnh thoảng cũng giúp em các việc gia đình như cho con ăn, chăn lợn, giặt giũ quần áo…Nhưng anh ấy chỉ làm khi em mệt hay đi vắng thôi” (T.T.N, nữ, 26 tuổi).
Hiện nay, hầu hết trẻ em trong lứa tuổi tiểu học đều được đến trường nên đã ít tham gia vào lao động sản xuất hơn trước đây. Các em chỉ phụ giúp gia đình trong những ngày nghỉ với một số công việc như chăn trâu, phơi thóc, trông em, quét dọn nhà cửa…
“Bây giờ công việc có gì đâu mà các cháu phải làm, ruộng nương ít nên người lớn còn chẳng có việc mà làm. Chỉ vào mùa là các cháu phải phụ thêm các công việc nhẹ thôi”. (Đ.V.L, nam, 42 tuổi).
“Đứa lớn nhà em những buổi không đi học thì giúp mẹ chăn trâu hay trông em còn ruộng thì em cũng không bắt cháu làm” (B.T.N, nữ, 28 tuổi).
* Thứ ba: Trên lĩnh vực chi tiêu
Nếu như trước đây, chi tiêu trong gia đình chủ yếu là lo ăn, mặc, xây dựng nhà cửa và tổ chức các công việc trọng đại trong gia đình như cưới xin, ma chay, cấp sắc, thì từ sau Đổi mới đến nay đã có sự khác biệt. Ngoài các khoản chi tiêu trên, hầu hết các gia đình còn phải chi tiêu cho các khoản khác như mua sắm các vật dụng (đài, ti vi, xe máy, điện thoại), trả tiền điện… và đặc biệt là chi phí cho con đi học. Các ý kiến trao đổi của đồng bào sẽ giúp chúng ta thấy rò hơn điều này.
“Sao bây giờ nó lắm cái phải tiêu đến tiền như thế, hết tiền điện, xăng xe lại mua cái này đến cái khác, nhiều nhất là mấy đứa đi học, hết nhiều tiền cho chúng nó lắm”. (L.T.N, nữ, 48 tuổi).
“Nhà em có xe máy và ti vi rồi, lương thực thì không phải mua, hàng tháng bọn em phải đóng tiền điện, mua xăng xe, thức ăn và quà cho con thì thỉnh thoảng thôi. Hiện nay phải tiêu nhiều nhất là cho con đi học”. (B.V.P, nam, 34 tuổi).
“Vợ chồng em ở cùng với bố mẹ, bình thường chúng em cũng làm các công việc ruộng nương cùng gia đình. Thời gian rỗi, cả hai vợ chồng đi làm thuê kiếm thêm tiền, bố mẹ không lấy mà cho chúng em để riêng. Bây giờ bố mẹ em vẫn chi tiêu cho cả nhà, bố mẹ bảo dành tiền để sau này cho con đi học”. (B.T.X, nữ, 22 tuổi).
Như vậy, từ khi Đổi mới đến nay, chức năng kinh tế của gia đình người Dao Quần Trắng đã có sự biến đổi trên cả ba khía cạnh là phương thức kiếm sống, phương thức chi tiêu và phân công lao động trong gia đình. Tuy nhiên, gia đình người Dao Quần Trắng vẫn là một đơn vị kinh tế độc lập, chủ yếu tự cung tự cấp. Các thành viên trong gia đình vẫn cùng làm, cùng hưởng thành quả và cùng chia sẻ các khó khăn trong cuộc sống.
3.2.3. Chức năng giáo dục
Một trong những chức năng quan trọng của gia đình là tái sản xuất ra con người. Nếu như chức năng sinh đẻ tái sản xuất ra con người về mặt sinh học thì chức năng giáo dục sẽ tái sản xuất ra con người về mặt xã hội. Gia đình là nơi con người được sinh ra và cũng chính là môi trường đầu tiên nuôi dưỡng các giá trị con người, các giá trị văn hóa tộc người.
Giáo dục là một trong những chức năng cơ bản của gia đình, chuẩn bị cho cá nhân những hiểu biết, những kỹ năng và thái độ cần thiết đối với các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh để cá nhân gia nhập vào đời sống xã hội. Mục đích sâu xa của giáo dục gia đình là hướng tới xây dựng nhân cách con
người, đạo lý làm người. Giáo dục gia đình sẽ hướng dẫn cho cá nhân nhận thức đúng đắn về những giá trị đích thực, những chuẩn mực và khuôn mẫu xã hội, những bổn phận, nghĩa vụ và quyền lợi, cũng như những trật tự không chỉ trong gia đình mà ở cả ngoài xã hội.
3.2.3.1. Chức năng giáo dục của gia đình trước Đổi mới
Trong xã hội của đồng bào Dao Quần Trắng trước Cách mạng tháng Tám 1945, do điều kiện kinh tế khó khăn, không có trường lớp nên trẻ em chủ yếu được giáo dục trong gia đình và môi trường xã hội của tộc người, chỉ ở một vài gia đình có điều kiện, con em họ được học chữ Hán và chữ Hán được Dao hóa (chữ nôm Dao). Từ sau hòa bình lặp lại năm 1954, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách nhằm phát triển giáo dục quốc dân trong cả nước nói chung và khu vực miền núi nói riêng. Tuy nhiên, do trường lớp ở xa, đi lại khó khăn nên con em của đồng bào cũng ít được tới trường. Vì vậy, giáo dục gia đình vẫn giữ vai trò to lớn đối với con em của họ và chủ yếu vẫn là giáo dục gia đình truyền thống.
Chức năng giáo dục trong gia đình của đồng bào Dao Quần Trắng trước Đổi mới được chúng tôi tập trung tìm hiểu, đánh giá trên ba khía cạnh chính sau.
* Thứ nhất, mục đích của giáo dục gia đình
Mục đích của giáo dục gia đình truyền thống của đồng bào Dao Quần Trắng là “dạy người” theo những chuẩn mực mà gia đình và xã hội truyền thống của họ mong muốn. Đó là một con người mang những giá trị văn hóa của tộc người, biết ứng xử trong gia đình, dòng họ cũng như cộng đồng và là người có kỹ năng, chăm chỉ trong lao động sản xuất. Để có được những con người như vậy, đồng bào Dao Quần Trắng đã có nội dung và phương pháp giáo dục thích hợp.
* Thứ hai, nội dung của giáo dục gia đình
Nội dung giáo dục gia đình truyền thống của đồng bào Dao Quần Trắng được thể hiện trên mấy khía cạnh sau.
Giáo dục các giá trị văn hóa tộc người: Giáo dục các giá trị văn hóa tộc người đầu tiên là việc truyền thụ ngôn ngữ. Trao truyền ngôn ngữ cho trẻ có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bởi lẽ ngôn ngữ là phương tiện để truyền thụ kiến thức và các giá trị văn hóa của tộc người. Ngay từ khi ra đời, đứa trẻ đã được tiếp nhận ngôn ngữ qua lời ru của mẹ, có thể nói đây là những nét bút đầu tiên chạm khắc lên tâm hồn con trẻ. Đứa trẻ lớn lên trong gia đình dưới vòng tay của ông bà, cha mẹ và những người thân khác. Tất cả những người thân trong gia đình đều trở thành người thầy truyền thụ ngôn ngữ cho trẻ.
Cùng với được truyền thụ ngôn ngữ, cá nhân còn được trao truyền các giá trị văn hóa của tộc người. Cá nhân được ông bà, cha mẹ kể cho nghe các câu truyện cổ tích, các truyền thuyết về nguồn gốc của tộc người, về quá trình di cư, về đấu tranh chinh phục thiên nhiên và chống áp bức bóc lột. Sống trong gia đình, cá nhân còn được chứng kiến và tham gia các hoạt động mang tính nghi lễ của gia đình và cộng đồng (các hoạt động trong cưới xin, ma chay, cấp sắc, lễ hội..), từ đó cá nhân có nhận thức về các phong tục, nghi lễ, các kiêng kị của gia đình và cộng đồng. Những giá trị văn hóa của cộng đồng thông qua các hoạt động trên đã tác động sâu sắc lên nhận thức của các nhân, cá nhân dần trở thành người mang các giá trị văn hóa của tộc người.
Giáo dục giá trị đạo đức: Giống với các cá nhân trong xã hội truyền thống của các dân tộc ở Việt Nam, cá nhân trong xã hội truyền thống của đồng bào Dao Quần Trắng cũng được sinh ra và lớn lên trong gia đình, thân tộc và cộng đồng làng bản. Vì vậy, mỗi cá nhân phải trang bị để hòa nhập vào các cộng đồng ấy. Ngay từ nhỏ, cá nhân đã được gia đình giáo dục về “tôn ti trật tự” trong gia đình, cá nhân nhận biết thứ bậc của mình trong gia đình và cung cách ứng xử cho đúng với địa vị của mình, đặc biệt là phải tôn kính tổ tiên, ngoan ngoãn, lễ phép với ông bà cha mẹ. Bên cạnh đó, cá nhân còn được giáo dục trong cách ứng xử với cộng đồng đó là tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái và thực hiện các quy định (luật tục) của cộng đồng. Một nét chung trong gia đình của người Dao Quần Trắng là trẻ em rất lễ phép, biết nghe lời ông bà cha mẹ, các thành viên trong gia đình thương yêu tương trợ lẫn nhau và rất ít khi xảy ra xô sát.
Giáo dục lao động, sản xuất: Nguồn sống chính của đồng bào Dao Quần Trắng là sản xuất nông nghiệp và khai thác các sản phẩm tự nhiên. Lao động nông nghiệp thủ công phải tốn nhiều sức khỏe mà năng suất lại thấp nên trong gia đình rất chú ý đến giáo dục các kỹ năng trong sản xuất. Ngay từ bé, trẻ em đã được bố mẹ cho theo đi ra ruộng, lên nương và các hoạt động khác, tùy theo lứa tuổi và giới tính mà đứa trẻ được cha mẹ cho tham gia vào các công việc gì. Con trai thường được cha dạy cho phát nương, khai phá đất hoang thành ruộng, cày bừa, săn bắn, khai thác gỗ, làm nhà…Con gái thường được mẹ dạy cho cấy lúa, tra hạt, dọn cỏ, nhuộm vải, may, vá, thêu thùa…Vừa học, vừa làm đến khi khoảng 13 - 14 tuổi, các em đã khá thành thạo các công việc.
Không chỉ dạy các kỹ năng lao động, cha mẹ cùng gia đình còn giáo dục cho con em thái độ yêu quý lao động, tinh thần cần cù, chăm chỉ, biết trân trọng thành quả lao động và cả việc tiết kiệm trong tiêu dùng.
Giáo dục tri thức tộc người: Trong quá trình lao động, sản xuất và sinh
hoạt hàng ngày, đồng bào Dao Quần Trắng tích lũy được hệ thống các tri thức dân gian phong phú và được lưu truyền lại. Đó là hệ thống các tri thức về lao động sản xuất (kinh nghiệm xem thời tiết, kinh nghiệm chọn gỗ làm nhà, kinh nghiệm khi đi săn và đánh cá…); tri thức trong chăm sóc sức khỏe và chữa bệnh…Những tri thức này được trao truyền lại cho thế hệ sau theo hình thức vừa quan sát, vừa thực hành theo những người có kinh nghiệm.
* Thứ ba, phương pháp của giáo dục gia đình
Phương pháp giáo dục gia đình tuyền thống của đồng bào Dao Quần Trắng được tiến hành với hai quá trình là tiếp nhận giáo dục và tự giáo dục. Dưới sự chỉ bảo, hướng dẫn của những người trong gia đình như ông bà, bố mẹ, anh chị… cá nhân quan sát và tiếp nhận các kiến thức thông qua mọi hoạt động. Cách thức chủ yếu trong quá trình tiếp nhận giáo dục là cá nhân được tham gia vào các hoạt động của người lớn, cá nhân quan sát và làm theo, qua nhiều lần hình thành các kỹ năng. Cùng với quá trình tiếp nhận giáo dục, cá nhân cũng tự tìm hiểu, tự giáo dục để hoàn thiện mình.
Tuy không có sự phân công cụ thể trong từng lĩnh vực giáo dục nhưng thường thường, ông bà là người trao truyền cho các cháu những tri thức về truyền thống và lịch sử tộc người, cách ứng xử trong gia đình, thân tộc cũng như cộng đồng; cha mẹ giáo dục những kĩ năng trong lao động sản xuất; anh chị là người truyền thụ những câu ca, điệu múa và các trò chơi dân gian. Cũng cần nói thêm rằng, đồng bào rất yêu quý trẻ nhỏ nên trong giáo dục họ ân cần chỉ bảo, ít xảy ra tình trạng đánh mắng đối với trẻ em.
3.2.3.2. Biến đổi chức năng giáo dục của gia đình
Từ khi Đổi mới đến nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của giáo dục nhà trường và xã hội, giáo dục gia đình của đồng bào Dao Quần Trắng đã và đang có sự biến đổi trên nhiều phương diện.
* Thứ nhất, về vai trò của giáo dục gia đình so với giáo dục nhà trường Trước đây, trẻ em người Dao Quần Trắng ít được đến trường mà chủ yếu
được giáo dục tại gia đình và cộng đồng, vì vậy, gia đình giữ vai trò quan trọng nhất trong giáo dục con người. Ngày nay, có hàng loạt các cơ quan, tổ chức tham gia vào giáo dục và xã hội hóa cá nhân như hệ thống giáo dục phổ thông với đầy đủ cấc cấp học (nhà trẻ, mầm non, tiểu học, trung họ cơ sở, trung học phổ thông), đội thiếu niên, đoàn thanh niên,hội phụ nữ…và những cơ quan, đoàn thể khác. Sự mở rộng hệ thống giáo dục quốc dân đến tận thôn bản làm cho gia đình không còn là môi trường giáo duy nhất trong trong giáo dục con
người nữa mà cùng với gia đình còn có nhà trường và xã hội. Qua số liệu điều tra về mức độ quan trọng giữa giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường, chúng tôi lập được bảng so sánh sau:
Bảng 3.11: So sánh vai trò của giáo dục của gia đình và nhà trường
Vai trò trong giáo dục | Số người | Tỷ lệ % | |
1 | Gia đình quan trọng hơn nhà trường | 8 | 16 |
2 | Nhà trường quan trọng hơn gia đình | 12 | 24 |
3 | Cùng quan trọng như nhau | 30 | 60 |
4 | Tổng | 50 | 100 |
Có thể bạn quan tâm!
- Phân Bố Người Dao Quần Trắng Ở Xã Tân Hương Theo Đơn Vị Hành Chính
- Tuổi Kết Hôn Lần Đầu Của Người Dao Quần Trắng (Trước 1986)
- Quy Mô Gia Đình Của Người Dao Quần Trắng Ở Tân Hương Hiện Nay
- Tác Động Của Biến Đổi Cấu Trúc, Chức Năng, Mối Quan Hệ Gia Đình Đến Đời Sống Gia Đình Và Xã Hội
- Biến Đổi Các Phong Tục, Nghi Lễ Trong Sinh Đẻ Và Nuôi Con
- Biến Đổi Các Phong Tục, Nghi Lễ Trong Lễ Cấp Sắc
Xem toàn bộ 141 trang tài liệu này.
(Nguồn: Số liệu điều tra 3/2013)
Tuy vậy, không vì thế mà chức năng giáo dục của gia đình mất đi, gia đình vẫn đảm nhận các khía cạnh trong giáo dục con người mà cho đến nay nhà trường chưa thể nào thực hiện được, đặc biệt là việc trao truyền ngôn ngữ và các giá trị văn hóa tộc người7.
* Thứ hai, một số trở ngại trong việc giáo dục con cái hiện nay
Bên cạnh những biến đổi trong vai trò của giáo dục gia đình, việc tiến hành giáo dục trong gia đình cũng có sự biến đổi. Trước đây, giáo dục trong gia đình trên tất cả các nội dung (trao truyền ngôn ngữ và các giá trị văn hóa; giáo dục đạo đức và lối sống; giáo dục lao động; truyền dạy tri thức dân gian) chủ yếu theo hình thức trẻ em được tham gia vào các hoạt động, được những người lớn có kinh nghiệm chỉ bảo và các em học theo qua nhiều lần thực hành sẽ thành thói quen. Nhưng ngày nay, ngoài các lĩnh vực đó, cá nhân còn được truyền thụ các tri thức về khoa học kỹ thuật, công nghệ nên các bậc cha mẹ không có đủ kiến thức để bổ sung cho con. Bên cạnh đó, thời gian dành cho con cái của các cặp vợ chồng ngày nay cũng đã hạn chế hơn trước bởi vì họ phải đi làm nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu cuộc sống ngày một cao. Nhiều cặp vợ chồng tách ra ở riêng sớm nên con cháu không thường xuyên được sự chỉ bảo của ông bà và những người thân khác. Sau đây là một số ý kiến về những trở ngại này.
“Hàng ngày vợ chồng em phải đi làm, hết mùa vụ lại đi làm thuê để kiếm thêm tiền, các con em nó tự học là chính, khi nào cần mua gì để học thì em cho, em cũng chỉ biết bảo con là cố học còn kiến thức em không biết gì mà dạy”.
7 Có một thực tế cần lưu ý là trong quá trình điền dã tại địa bàn, chúng tôi thấy rằng, cho đến nay, tất cả trẻ em người Dao Quần Trắng vẫn đều sử dụng tốt tiếng mẹ đẻ. Trong khi đó, trẻ em người Tày, Cao Lan trên địa bàn rất hạn chế điều này và nhiều em không sử dụng được.