Tuổi Kết Hôn Lần Đầu Của Người Dao Quần Trắng (Trước 1986)

ngoài không nhiều nên chủ yếu nam nữ thường kết hôn trong phạm vi làng xã. Bên cạnh đó, việc kết hôn cũng chủ yếu cùng tộc người. Họ cho rằng, kết hôn cùng tộc người sẽ không gặp các trở ngại về phong tục, tập quán và trong các sinh hoạt.

“Chúng tôi muốn kết hôn với người cùng dân tộc, bố mẹ chúng tôi cũng thích chọn người cùng dân tộc vì các phong tục tập quán của dân tộc chúng tôi đều đã biết nên rất dễ trong sinh hoạt” (B.T.T, nữ, 55 tuổi).

* Thứ hai: Tuổi kết hôn

Tuổi kết hôn là một trong những chỉ báo để đánh giá sự biến đổi trong quan hệ hôn nhân. Kết quả khảo sát thực tế tại địa bàn cho thấy, trong xã hội của đồng bào Dao Quần Trắng trước Đổi mới, tuổi kết hôn trung bình của nam nữ người Dao Quần trắng là khá thấp 15.8 tuổi, độ tuổi kết hôn chủ yếu từ 14 đến 17 tuổi chiếm tới 82% của mẫu, từ 18 tuổi trở lên chiếm 18% và từ 13 tuổi trở xuống chiếm 4% của mẫu. Như vậy, ở thời điểm trước 1986, độ tuổi kết hôn của người Dao Quần Trắng trên địa bàn nghiên cứu đa số là dưới tuổi quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

Bảng 3.1: Tuổi kết hôn lần đầu của người Dao Quần Trắng (trước 1986)

STT

Tuổi

Số người

Tỷ lệ %

1

Từ 13 tuổi trở xuống

2

4

2

14

7

14

3

15

11

22

4

16

12

24

5

17

9

18

6

18

5

10

7

19

2

4

8

Từ 20 trở lên

2

4


Tổng

50

100

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 141 trang tài liệu này.

Biến đổi gia đình người Dao Quần Trắng ở xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái - 6

(Nguồn: Số liệu điều tra 3/2013)

Tình trạng kết hôn sớm trong xã hội của người Dao Quần Trắng trước Đổi mới là do nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân chủ yếu là do phong tục, tập quán của đồng bào. Quan niệm của đồng bào Dao Quần Trắng cho rằng, nam nữ khoảng 13, 14 tuổi – khi mà đã “biết làm, biết ăn” là có thể lấy vợ lấy chồng và sinh con đẻ cái. Do sản xuất nông nghiệp cần có nhiều lao động nên các bậc cha mẹ thường ép buộc con cái lấy vợ, lấy chồng sớm; do các gia đình đẻ nhiều con nên cũng muốn xây dựng sớm để lo cho các con đằng sau; do trai

gái ít được đi học thường ở nhà sản xuất cùng gia đình nên cũng muốn xây dựng gia đình sớm cho nhanh chóng ổn định…

Kết hôn sớm để lại nhiều hệ quả cho gia đình và xã hội như vợ chồng quá trẻ chưa hoàn thiện về thể chất, chưa có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống; kết hôn sớm dẫn đến độ tuổi sinh sản của người phụ nữ kéo dài là nguyên nhân của đẻ nhiều con; kết hôn sớm còn làm suy giảm chất lượng dân số và sức khỏe của người phụ nữ.

* Thứ ba: Sự quyết định trong hôn nhân

Trước khi đi đến hôn nhân, nam nữ người Dao Quần Trắng cũng được tự do kết bạn, được tìm hiểu nhau và được thổ lộ tình yêu qua các buổi làm đồng, đi chơi, nhất là qua các dịp hát đối đáp giao duyên trong các ngày lễ hội hay tại các đám cưới. Tuy nhiên, tất cả chỉ dừng lại ở tình yêu còn có tiến tới hôn nhân hay không là phải tuân theo những nguyên tắc của gia đình, họ mạc và của cộng đồng.

Trong quan hệ hôn nhân truyền thống, đồng bào Dao Quần Trắng quan niệm dựng vợ gả chồng cho con cái là “việc của bố mẹ”, do cha mẹ quyết định và “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy”. Chính vì vậy, khi con trai đã đến tuổi lấy vợ, bố mẹ sẽ cố gắng để “tìm cho gia đình” một nàng dâu vừa ý. Họ thường để ý những cô gái trong bản hoặc nhờ anh em, bạn bè của gia đình giới thiệu. Qua các “kênh” khác nhau, cha mẹ của chàng trai tìm hiểu về lai lịch gia đình và chính bản thân cô gái. Các bậc cha mẹ thường chọn cho con mình những cô gái nhanh nhẹn, chăm chỉ làm ăn và có gia cảnh phù hợp với gia đình nhà mình. Đối với trường hợp con cái đã chọn được người yêu thì phải báo cáo để cha mẹ “kiểm duyệt” và đưa ra quyết định. Phỏng vấn những người trên 45 tuổi (những người này vào thời điểm trước 1986 họ đã có hiểu biết nhất định về gia đình riêng hay gia đình gốc của bố mẹ - nơi mà họ đã từng sinh sống) trong xã với câu hỏi: Ai là người quyết định hôn nhân của ông/bà? Kết quả cho thấy có tới 52% người trả lời rằng do cha mẹ quyết định hoàn toàn, 30% là do cha mẹ quyết định nhưng có hỏi qua ý kiến của con, 18% bản thân quyết định nhưng có hỏi ý kiến bố mẹ và không có trường hợp nào tự do bản thân quyết định hoàn toàn.

Bảng 3.2: Người quyết định hôn nhân (trước 1986)

STT

Người quyết định hôn nhân

Số người

Tỷ lệ %

1

Bố mẹ quyết định hoàn toàn

26

52

2

Bố mẹ quyết định nhưng có hỏi ý kiến

15

30

3

Bản thân quyết định nhưng có hỏi ý kiến bố mẹ

9

18

4

Bản thân quyết định hoàn toàn

0

0


50

100

Tổng

(Nguồn: Số liệu điều tra 3/2013)

Thực tế đã nêu trên cho chúng ta thấy rằng, hôn nhân không phải là do kết quả tìm hiểu, lựa chọn và quyết định của “những người trong cuộc” trên cơ sở tình yêu mà là do sự sắp xếp của cha mẹ trên cơ sở tập quán của cộng đồng.

* Thứ tư: Nơi cư trú sau kết hôn

Truyền thống các dân tộc ở Việt Nam, phụ nữ khi đã đi lấy chồng thì thường về ở bên nhà chồng (trừ các dân tộc theo truyền thống mẫu hệ). Ở cộng đồng người Dao Quần Trắng cũng vậy, phụ nữ đi lấy chồng thường cư trú bên nhà chồng. Tuy nhiên, có điểm khác với nhiều dân tộc ở Việt Nam là đồng bào Dao nói chung và nhóm Dao Quần Trắng nói riêng có tục “lấy rể”. Tục “lấy rể” quy định trước khi người con gái đi làm dâu thì người con trai phải thực hiện nghĩa vụ làm rể. Lấy rể thời gian dài hay ngắn phụ thuộc vào gia đình bên nhà vợ và việc này được thỏa thuận giữa hai gia đình trước khi đám cưới diễn ra. Thường thường, các gia đình người Dao Quần Trắng ở Tân Hương thường lấy rể từ 3 đến 4 năm. Có trường hợp nếu gia đình nhà vợ sinh toàn con gái thì sẽ lấy một chàng rể suốt đời. Trong trường hợp này, người con trai phải đổi họ sang họ vợ. Trong thời gian đi làm rể, người con trai trở thành một thành viên bên gia đình nhà vợ và họ thường được gia đình giao cho làm rất nhiều công việc, đặc biệt là các công việc nặng nhọc như phát nương, khai phá đất đai. Hoàn thành thời gian làm rể bên nhà vợ, cặp vợ chồng về cư trú hẳn bên nhà chồng, họ thường rất ít tách ra ở riêng ngay. Đối với các trường hợp hôn nhân khác tộc người sẽ không áp dụng tục lấy rể.

3.1.1.2. Những biến đổi trong cấu trúc (quan hệ) hôn nhân

* Thứ nhất: Không gian địa lý của sự kết hôn

Từ sau Đổi mới đến nay, không gian địa lý của sự kết hôn đã có nhiều thay đổi. Phạm vi kết hôn không chỉ dừng lại ở thôn, xã nữa mà có một số người đã kết hôn ở những xã khác, thậm chí là kết hôn ở phạm vi ngoài huyện, ngoài tỉnh. Tuy số người kết hôn ở ngoài huyện không nhiều và chỉ chủ yếu là ở những người có điều kiện đi học hay đi làm việc ở những nơi khác. Cùng với việc mở rộng không gian địa lý kết hôn thì cũng đã có một số trường hợp kết hôn ngoài tộc người.

“Nhà tôi có ba đứa con, không đứa nào lấy người Dao cả. Hai đứa con gái lấy chồng người Kinh, còn thằng con trai lấy vợ là người Cao Lan. Tôi cũng muốn chúng nó lấy vợ là người Dao nhưng chúng nó không muốn, tôi cũng kệ” (B.V. T, nam, 56 tuổi).

Thực tế tại thôn Đồi Hồi (là thôn có cả người Dao và người Kinh cùng sống) chúng tôi thấy có 3 trường hợp con trai người Kinh lấy vợ là người Dao và 1 trường hợp con trai người Dao lấy vợ là người Kinh. Một vấn đề đặt ra với chúng tôi trước hiện tượng mở rộng không gian của sự kết hôn và đặc biệt là sự mở rộng hôn nhân ngoại tộc là: Liệu có điều gì trở ngại đối với các cặp vợ chồng kết hôn ngoại tộc không? Khi tìm hiểu về những trở ngại của những người kết hôn ngoại tộc, chúng tôi cũng nhận được những ý kiến rất lý thú.

“Chồng em là người Kinh. Trước đây, vợ chồng em ở với bố mẹ vài năm, cũng có nhiều cái khác với người Dao chúng em nhưng em thấy rất thoải mái vì chẳng phải kiêng kị gì cả. Bố mẹ chồng em chăm sóc cháu cẩn thận lắm, lúc nào cháu cũng sạch sẽ không như người Dao chúng em”. (L.T. L, nữ, 25 tuổi).

“Con gái tôi lấy chồng người Dao cũng ở cùng thôn này, đầu tiên thì vợ chồng tôi cũng hơi lo vì bên người Dao nhiều kiêng kị và hay cúng bái lắm nhưng bây giờ tôi cũng thấy nó bình thường. Ông bà thông gia với tôi vẫn trẻ nên họ cũng thoáng lắm, có gì ăn chúng tôi cũng hay ngồi với nhau,tôi thấy không có gì trở ngại trong quan hệ cả” (B.V.T, nam 47 tuổi, người Kinh)

Như vậy, chúng tôi nhận thấy rằng cũng không có nhiều trở ngại trong quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa cha mẹ với con cái cũng như của hai bên gia đình trong các cuộc hôn nhân ngoại tộc ở đây. Có điều này là do sự chung sống cộng cư lâu dài giữa các tộc người, họ đã hiểu biết về nhau và tôn trọng nhau. Hơn nữa, do đời sống xã hội có nhiều biến chuyển nên trong các gia đình, đặc biệt là gia đình của người Dao không còn bảo lưu nhiều các phong tục, tập quán, kiêng kị phức tạp như ngày xưa nữa.

Có sự mở rộng không gian kết hôn và sự xuất hiện của hôn nhân ngoại tộc là do hiện nay đã có sự mở rộng quan hệ giao lưu của cộng đồng người Dao Quần Trắng với các tộc người khác trong khu vực; trong cộng đồng đã có những người đi học hoặc đi làm ăn ở những nơi khác (ngoài làng xã). Bên cạnh đó là có những người từ các địa phương khác đến làm ăn ở trong vùng.

* Thứ hai: Tuổi kết hôn

Từ sau Đổi mới đến nay, tuổi kết hôn của đồng bào đã có sự thay đổi. Độ tuổi kết hôn của nam nữ đã được nâng lên đáng kể, độ tuổi kết hôn phổ biến nhất là từ 18 đến 21 tuổi. Tuy vẫn còn có trường hợp kết hôn dưới tuổi quy định của Luật Hôn nhân và gia đình nhưng nhìn chung tuổi kết hôn của đồng bào Dao Quần Trắng trên địa bàn nghiên cứu đã được nâng cao hơn.

45

Bảng 3.3: Tuổi kết hôn lần đầu của người Dao Quần Trắng (sau 1986)


STT

Tuổi

Số người

Tỷ lệ %

1

Từ 16 tuổi trở xuống

2

4

2

17

4

8

3

18

8

16

4

19

8

16

5

20

9

18

6

21

8

16

7

22

5

10

8

Từ 22 trở lên

6

12


Tổng

50

100

(Nguồn: Số liệu điều tra 3/2013)

Tuổi kết hôn của nam nữ người Dao Quần Trắng hiện nay được nâng lên là do các nguyên nhân: Trước tiên là nhận thức của cộng đồng, gia đình và bản thân nam nữ thanh niên về hệ quả của việc kết hôn sớm (ảnh hưởng đến sức khỏe, suy giảm chất lượng dân số…). Thứ hai là do mức độ hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình trong cộng đồng đã được nâng cao.

* Thứ ba: Người quyết định hôn nhân

Từ sau Đổi mới cho đến nay, mô hình quyết định hôn nhân đã có sự thay đổi mạnh mẽ. Mặc dù vẫn còn một bộ phận chịu sự chi phối trong quyết định hôn nhân từ phía cha mẹ nhưng nam nữ người Dao Quần Trắng đã được tự do tìm hiểu và quyết định hôn nhân. Số liệu điều tra cho thấy tuyệt đại đa số nam nữ đã quyết định hôn nhân của mình (96%), chỉ còn có 4% là bố mẹ quyết định hoàn toàn. Tuy nhiên, đa số các trường hợp khi quyết định hôn nhân đều tham khảo ý kiến của gia đình (76%).

Bảng 3.4: Người quyết định hôn nhân hiện nay

STT

Người quyết định hôn nhân

Số người

Tỷ lệ %

1

Bố mẹ quyết định hoàn toàn

2

4

2

Bố mẹ quyết định nhưng có hỏi ý kiến

7

14

3

Bản thân quyết định nhưng có hỏi ý kiến bố mẹ

38

76

4

Bản thân quyết định hoàn toàn

3

6

Tổng


50

100

(Nguồn: Số liệu điều tra 3/2013)

Số liệu trên cho thấy, vai trò của cha mẹ trong việc quyết định hôn nhân của con cái đã giảm đi đáng kể, vai trò của con cái trong hôn nhân ngày càng được nâng cao. Sau đây là một số ý kiến xung quanh vấn đề này được chúng tôi

46

trích ra từ các cuộc phỏng vấn sâu.

“Ngày xưa không có cái chuyện là con cái thích lấy ai thì lấy, cái gì cũng phải được bố mẹ đồng ý. Bây giờ thì khác rồi, chúng nó thích ai thì về bảo với mình để làm đám cưới thôi” (Đ.V.C, nam, 57 tuổi).

“Con chị nó thích ai thì nó lấy, miễn là nó lấy được đứa ngoan và chăm chỉ là được” (T.T.N, nữ, 45 tuổi)

“Thanh niên bọn em bây giờ tự quyết định lấy vợ lấy chồng là chính, nhưng bọn em cũng hỏi ý kiến của ông bà, bố mẹ. Dù sao người lớn vẫn có nhiều kinh nghiệm hơn mình. Ông bà bố mẹ cũng chỉ góp ý thôi chứ không bắt ép đâu” (B.T.C, nữ, 23 tuổi – Bí thư chi đoàn thôn).

* Thứ tư: Nơi cư trú sau kết hôn

Từ sau Đổi mới đến nay, mô hình cư trú sau hôn nhân đã có nhiều biến đổi. Tuy tục lấy rể vẫn tồn tại phổ biến trong cộng đồng nhưng đã có sự biến đổi và nhiều khi chỉ còn là hình thức. Đại đa số các gia đình ngày nay chỉ lấy rể từ vài tháng cho đến một năm. Có những trường hợp người con trai đi làm rể chỉ thỉnh thoảng mới ở bên nhà vợ.

“Trước đây, khi tôi lấy bà ấy, tôi phải đi làm rể 4 năm và phải làm các công việc nặng nhọc bên đó. Tôi cũng có ba đứa con gái, đứa đầu tiên tôi lấy rể 1 năm, hai đứa sau tôi không lấy năm nào vì các cháu bây giờ nó ngại đi làm rể, hơn nữa nhà tôi cũng đông con, đất thì ít nên chẳng lấy rể để làm gì” (B.V.C, nam, 60 tuổi).

“Em cưới vợ năm ngoái, bố mẹ vợ em lấy rể một năm nhưng được 6 tháng thì bố mẹ cho hai vợ chồng về, chỉ hôm nào có việc hay có cỗ thì bố mẹ mới gọi sang.” (B.V.N,nam, 21 tuổi).

Hiện nay, về cơ bản, các cặp vợ chồng khi cưới vẫn ở cùng gia đình trong thời gian khoảng vài năm, khi đảm bảo một số điều kiện như làm nhà và mua sắm các vật dụng mới tách ra ở riêng. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp hai vợ chồng cùng gia đình có điều kiện để làm nhà và mua sắm các vật dụng cần thiết thì tách ra ở riêng ngay.

Như vậy, tìm hiểu về cấu trúc hôn nhân của nhóm Dao Quần Trắng ở xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái, chúng tôi thấy rằng: Từ sau Đổi mới đến nay, cấu trúc này đã có sự biến đổi mạnh mẽ trên nhiều phương diện. Sự biến đổi này vẫn trên cơ sở cấu trúc hôn nhân truyền thống. Các truyền thống lâu đời của đồng bào vẫn được duy trì như tục “lấy rể”, các khía cạnh lạc hậu trong hôn nhân như hiện tượng tảo hôn, cha mẹ ép hôn con cái… đã dần được

3.1.2. Cấu trúc gia đình theo số khẩu (quy mô)

Quy mô gia đình được thể hiện qua số lượng các thành viên (số nhân khẩu) trong gia đình. Quy mô gia đình thường chịu qui định (biểu hiện) bởi số các cặp vợ chồng trong gia đình và số lượng con của các cặp vợ chồng sinh ra.

3.1.2.1. Cấu trúc gia đình theo số khẩu trước Đổi mới

Tìm hiểu về gia đình người Dao Quần Trắng trước Đổi mới, chúng tôi thấy rằng qui mô gia đình truyền thống của họ thường rất lớn (đông nhân khẩu).

Trước đây, các cặp vợ chồng mới cưới không có xu hướng tách hộ và xây nhà riêng ngay, họ thường ở cùng với bố mẹ chồng một thời gian. Hiện tượng này khá phổ biến trong xã hội người Dao Quần Trắng bởi những lý do: Thứ nhất, do điều kiện kinh tế khó khăn nên việc xây dựng nhà cửa và sắm sửa các vật dụng để tổ chức một gia đình riêng là rất vất vả; Thứ hai, các cặp vợ chồng khi mới lấy nhau thường rất trẻ (ít tuổi), họ chưa có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống cũng như trong tổ chức sản xuất nên họ muốn ở cùng bố mẹ để được trang bị thêm các kinh nghiệm từ những người lớn tuổi; Thứ ba, ở cùng với bố mẹ sẽ có người trông coi, dạy dỗ con cái cho vợ chồng. Chính vì những lý do trên mà các cặp vợ chồng chỉ tách khỏi gia đình bố mẹ để thành lập gia đình riêng khi họ đã tự tổ chức được cuộc sống và con cái đã biết phụ giúp cho bố mẹ. Do các cặp vợ chồng không có nhu cầu tách ra thành gia đình riêng ngay nên trong xã hội truyền thống tồn tại nhiều gia đình có tới hơn một cặp vợ chồng, thậm chí một gia đình có từ bốn tới năm cặp vợ chồng (cặp vợ chồng ông bà, cặp vợ chồng bố mẹ và cặp vợ chồng của con).

“Thôn tôi khi đó có mười mấy nhà thôi nhưng nhà nào cũng đông người, nhà nào cũng có mấy đôi vợ chồng: vợ chồng bố mẹ, vợ chồng của các con trai và con gái, có nhà vẫn còn cả ông bà đang sống cùng”. (T.T.N, nữ, 72 tuổi).

“Trước đây, người Dao chúng tôi khi lấy vợ, lấy chồng vẫn sống cùng với bố mẹ và vợ chồng của các anh chị, chúng tôi chỉ ra ở chỗ khác khi có điều kiện để làm nhà mới hay con cái nó đã lớn. Sống chung nó cũng có cái không tiện nhưng nó thuận lợi cho việc khai phá ruộng nương, trẻ con nó cũng tự chơi với nhau để người lớn đi làm”. (Đ.V.T, nam, 65 tuổi).

Quy mô gia đình lớn còn do tập quán đẻ nhiều con của các cặp vợ chồng người Dao Quần Trắng. Hiện tượng đẻ nhiều con xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất, do quan niệm truyền thống của đồng bào là “nhiều con, nhiều của”, con cái không chỉ là nguồn lao động của các gia đình mà còn là chỗ trông cậy cho cha mẹ khi về già; Thứ

chế nên tình trạng “hữu sinh vô dưỡng” là phổ biến nên họ cũng muốn đẻ nhiều con để “sẵn sàng thay thế” khi có rủi ro xảy ra; Thứ ba, là do các biện pháp tránh thai chưa được áp dụng rộng rãi, chức năng tình dục để thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý chưa tách khỏi chức năng sinh đẻ, các cặp vợ chồng không thể chủ động trong việc sinh con nên việc có nhiều con nhiều khi là do “nhỡ nhàng”.

“Tôi và vợ tôi đều là con đầu trong gia đình, bố mẹ tôi sinh được 9 anh em, khi đó nhà tôi có tất cả 11 người. Còn ông bà vãi (bố mẹ vợ) tôi sinh được 11 người, khi tôi về ở rể bên đó gia đình có tất cả 13 người, năm sau vợ chồng tôi sinh được đứa con thì có 14 người”. (B.V.T, nam 56 tuổi).

“Ngày xưa đất ở đây rộng, người lại ít, gia đình nào cũng thích đẻ nhiều con để có người đi làm, mà có nhiều con cũng vui, hơn nữa, sau này gia đình có việc gì anh em tập trung lại cũng đỡ vất vả, mỗi người chỉ giúp đỡ một tí là xong công việc”(Đ.V.T, nam, 65 tuổi)

Số liệu điều tra thực tế cho thấy, trước 1986 tất cả các gia đình trong mẫu đều có từ 2 người trở lên, trong đó, gia đình có từ 5 đến 6 người chiếm 48%, gia đình có trên 7 người chiếm tới 36%.

Bảng 3.5: Quy mô gia đình thời điểm trước 1986

STT

Số người trong gia đình

Số lượng

%

1

Một người

0

0

2

Hai người

1

2

3

Ba người

1

2

4

Bốn người

6

12

5

Năm người

9

18

6

Sáu người

15

30

7

Bẩy người trở lên

18

36

(Nguồn: Số liệu điều tra 3/2013)

Quy mô gia đình lớn một mặt gây ra những khó khăn nhất định trong sinh hoạt gia đình như không gian sinh sống của mỗi người bị thu hẹp, tự do cá nhân khó được tôn trọng, sự va chạm khó tránh khỏi. Tuy nhiên, ngoài những tác động xấu trên, quy mô gia đình lớn đã tỏ rò những ưu thế trong sản xuất. Quy mô gia đình lớn thường gắn với lực lượng lao động đông đảo nên họ có điều kiện tập trung nhân lực để khai phá ruộng nương với quy mô lớn và tâp trung nhân lực cho kịp mùa vụ.

3.1.2.2. Những biến đổi trong cấu trúc gia đình

Từ sau Đổi mới đến nay, quy mô gia đình của đồng bào Dao Quần Trắng trên địa bàn nghiên cứu đã có sự biến đổi mạnh mẽ. Tìm hiểu về quy mô gia

49

Xem tất cả 141 trang.

Ngày đăng: 23/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí