Thuật ngữ tha tù trước kỳ hạn đã được đề cập đến từ rất sớm, nhưng trong Bộ Luật hình sự năm 1985 và Bộ Luật hình sự năm 1999 lại không sử dụng thuật ngữ này. Bộ luật hình sự năm 2015 đã quy định cụ thể nội dung này tại một Điều riêng (Điều 66) với tên gọi "Tha tù trước thời hạn có điều kiện". Chế định này cho phép sớm đưa người phạm tội bị xử phạt tù quay trở về với cộng đồng để phục thiện, sửa chữa lỗi lầm. Chế định này được ghi nhận là sự cụ thể hoá quan điểm, đường lối của Đảng ta về vấn đề này, theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cụ thể là “đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội” [4, phần các nhiệm vụ giải pháp].
Bộ luật Hình sự năm 1985, năm 1999 cũng đã quy định một số giải pháp rút ngắn thời hạn chấp hành hình phạt đối với người chưa chấp hành hình phạt tù trong trại giam, đó là những quy định về miễn, giảm hình phạt. Điều kiện về miễn chấp hành hình phạt tù đối với người phạm tội nhìn chung dựa trên ba tiêu chí là thời gian thực sự chấp hành hình phạt, thái độ cải tạo phục hồi (như lập công, có nhiều tiến bộ, chấp hành tốt nội quy, quy chế trại giam, xếp loại cải tạo) và lý do nhân đạo (như mắc bệnh hiểm nghèo).
Cụ thể, việc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt tù đối với người phạm tội được quy định tại Điều 57 Bộ luật hình sự năm 1999. Riêng đối với người chưa thành niên phạm tội thì vấn đề này còn được quy định tại Điều 76 Bộ luật hình sự năm 1999. Theo quy định này, người phạm tội có thể được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt tù có thời hạn trong hai trường hợp:
Thứ nhất, người phạm tội bị kết án tù có thời hạn, chưa chấp hành hình phạt mà lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt cho người đó.
Thứ hai, người bị kết án về tội ít nghiêm trọng đang được hoãn chấp
hành hình phạt mà lập công thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt.
Việc miễn chấp hành phần hình phạt còn lại có thể được tiến hành đối với người phạm tội trong thời gian tạm đình chỉ chấp hành hình phạt mà lập công hoặc trong trường hợp được đặc xá. Theo quy định tại Khoản 4 Điều 57 Bộ luật hình sự năm 1999, người bị kết án về tội ít nghiêm trọng đang trong thời gian được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt mà lập công thì có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
Ngoài ra, theo quy định của Luật Đặc xá, người đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn mà thỏa mãn các điều kiện về ý thức chấp hành nội quy, quy chế trại giam, thái độ lao động, học tập, xếp loại cải tạo cũng như điều kiện về thời gian đã thực tế chấp hành hình phạt tù thì được đề nghị Chủ tịch nước quyết định đặc xá.
Việc áp dụng những quy định này trong thực tiễn đã góp phần đáng kể vào việc động viên người bị kết án yên tâm cải tạo, tích cực sửa chữa lỗi lầm để trở thành công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, những quy định trên vẫn còn có một số khiếm khuyết nhất định như: Chưa thực sự chú trọng đến việc phòng ngừa tái phạm; Không có ràng buộc đối với người phạm tội được trả tự do; Đối tượng được miễn chấp hành toàn bộ hoặc phần còn lại của hình phạt tù còn khá hạn chế;...
Chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện được ghi nhận giúp giải quyết các vấn đề tồn tại đã nêu trên, cụ thể như sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam - 1
- Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam - 2
- Các Đặc Điểm Cơ Bản Của Quyền Con Người
- Nội Dung Bảo Vệ Quyền Con Người Bằng Các Chế Định Về Chấp Hành Hình Phạt
- Bảo Vệ Quyền Con Người Bằng Chế Định Hoãn Chấp Hành Hình Phạt Tù
- Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam - 7
Xem toàn bộ 64 trang tài liệu này.
Chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện đã chú trọng đến việc phòng ngừa tái phạm thông qua các quy định, ràng buộc cụ thể đối với người phạm tội được tha tù trước thời hạn; Đối tượng được xem xét tha tù trước thời hạn có điều kiện là tương đối rộng so với các quy định trước đây. Cụ thể như sau:
Là người phạm tội lần đầu có nơi cư trú rõ ràng; đang chấp hành án phạt tù; có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt (đối với người bị kết án về tội
phạm nghiêm trọng trở lên thì phải là người đã được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù); Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, án phí và các nghĩa vụ bồi thường dân sự; Đã chấp hành được ít nhất là một phần hai mức thời hạn tù đối với hình phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất 15 năm đối với tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn.
Trường hợp người phạm tội là thương binh, bệnh binh, thân nhân gia đình liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, người đủ 70 tuổi trở lên, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì thời gian đã chấp hành ít nhất là một phần ba hình phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất 12 năm đối với tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn.
Người có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật hình sự về tha tù trước thời hạn có điều kiện, theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người bị kết án. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách. Thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của hình phạt tù. Nếu trong thời gian thử thách, người được tha tù trước thời hạn có điều kiện cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đó và buộc họ phải chấp hành phần hình phạt tù còn lại chưa chấp hành. Nếu trong thời gian thử thách, người đó lại thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó chấp hành hình phạt của bản án mới và tổng hợp với phần hình phạt tù chưa chấp hành của bản án trước đó.
Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đã chấp hành được ít nhất là một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách đối với người đó.
Bên cạnh việc đảm bảo các quyền cơ bản của con người, chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện đã đưa ra các điều kiện ràng buộc cụ thể đối với người được tha tù, đồng thời đã hạn chế các đối tượng tiềm ẩn cao khả năng tái phạm, đặc biệt là các tội có liên quan đến an ninh quốc gia, chống lại loài người, tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm của con người, cụ thể chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện không áp dụng đối với:
- Người bị kết án về tội xâm phạm an ninh quốc gia; tội khủng bố; tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh hoặc người bị kết án từ 10 năm tù trở lên đối với tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm của con người; 07 năm tù trở lên đối với các tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và sản xuất trái phép, mua bán trái phép, chiếm đoạt chất ma túy;
- Người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc những người thuộc diện không thi hành án tử hình đối với người bị kết án quy định tại Khoản 3, Điều 40 Bộ luật hình sự năm 2015 (người bị kết án tử hình nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây: Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; Người đủ 75 tuổi trở lên; Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn).
Từ các phân tích trên đây, tác giả đưa ra khái niệm tha tù trước thời hạn có điều kiện như sau:
Tha tù trước thời hạn có điều kiện là việc Toà án cho phép người chưa chấp hành xong án phạt tù được trở về với cuộc sống bình thường, khi người đó đáp ứng những điều kiện do pháp luật hình sự quy định. Người được tha tù trước thời hạn phải thực hiện thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của hình phạt tù.
Có thể nói tha tù trước thời hạn có điều kiện là biện pháp mang tính chất khoan hồng đối với người phạm tội, đây thực chất là một biện pháp giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù có điều kiện mang tính chất nhân đạo, chỉ có thể được áp dụng với người phạm tội lần đầu. Khi một người được tha tù trước thời hạn có điều kiện thì người đó sẽ được tại ngoại, sống cuộc sống bình thường tại nơi người đó cư trú. Nhưng trong khoảng thời gian thử thách người đó không hoàn toàn được tự do mà phải thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật hình sự. Trong thời gian thử thách, yêu cầu của Toà án đối với người được tha tù trước thời hạn có điều kiện là rất cao, phải nghiêm chỉnh chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, nếu trong thời gian thử thách người này cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đó và buộc họ phải chấp hành phần hình phạt tù còn lại chưa chấp hành. Đặc biệt là không được phạm tội mới. Nếu trong thời gian thử thách, người đó lại thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó chấp hành hình phạt của bản án mới và tổng hợp với phần hình phạt tù chưa chấp hành của bản án trước đó.
Việc ghi nhận chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện nhằm đáp ứng các mục tiêu về cải cách tư pháp mà Bộ Chính trị đã đề ra nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Việc bổ sung chế định tha tù trước thời hạn có điều kiện cũng sẽ nâng cao hiệu quả trong công tác phòng ngừa tái phạm; đảm bảo hơn nữa các quyền cơ bản của con người và giảm tình trạng quá tải tại các cơ sở giam giữ hiện nay.
1.3. Vai trò của các chế định về chấp hành hình phạt đối với việc bảo vệ các quyền con người
Như chúng ta đã biết mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội,
có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc trong cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Mục đích của miễn chấp hành hình phạt, giảm mức hình phạt đã tuyên, giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt, hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù và tha tù trước thời hạn có điều kiện, ngoài việc mang tính chất hỗ trợ và đan xen cùng với hình phạt trong việc xử lý tội phạm và người phạm tội được triệt để, đảm bảo nguyên tắc pháp chế, công bằng và nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước, các chế định này còn bảo đảm nguyên tắc phân hóa tối đa trách nhiệm hình sự và hình phạt của người bị kết án khi đáp ứng các điều kiện do luật định, cũng như phản ánh thái độ tích cực và kết quả cải tạo, giáo dục tốt của những đối tượng này.
Ý nghĩa của các chế định này thể hiện ở chỗ Tòa án vẫn thể hiện được tính kiên quyết, thận trọng của hình phạt khi áp dụng với người phạm tội nhưng vẫn tạo điều kiện để họ thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với xã hội, tạo điều kiện để họ có điều kiện chấp hành hình phạt được tốt hơn, sớm được trở lại với cuộc sống bình thường, có cơ hội để sửa chữa lỗi lầm, hạn chế, ngăn ngừa phạm tội mới, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội.
Xuất phát từ tính chất nhân đạo, tôn trọng quyền con người của chính sách hình sự nói chung và của các chế định về chấp hành hình phạt nói riêng, việc Tòa án cho người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt, giảm mức hình phạt, hoãn chấp hành hình phạt, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt và tha tù trước thời hạn có điều kiện có ý nghĩa chính trị - xã hội, pháp lý hết sức quan trọng.
Về mặt thực tiễn, nếu Tòa án áp dụng đúng đắn và chính xác trong thực tiễn các quy phạm của các chế định về chấp hành hình phạt sẽ đưa đến một loạt các lợi ích xã hội, đó là việc tăng cường pháp chế và củng cố trật tự pháp
luật, bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của con người, nâng cao uy tín của ngành Tòa án, tăng thêm lòng tin của nhân dân vào tính công minh và sức mạnh của pháp luật.
Về mặt chính trị - pháp lý, các chế định về chấp hành hình phạt, một mặt góp phần đảm bảo cho việc thực hiện nhất quán nguyên tắc công bằng, mặt khác phản ánh nguyên tắc nhân đạo, tôn trọng quyền con người của pháp luật hình sự Việt Nam. Vì pháp luật cần thiết phải quy định các chế tài để nghiêm trị và răn đe người phạm tội nhưng không thể thiếu tính nhân đạo. Xã hội muốn có công bằng và nhân đạo phải là một xã hội có hệ thống pháp luật vì con người. Xã hội không thể ổn định và phát triển được nếu như pháp luật không vì con người, nếu pháp luật không mở lối cho người bị kết án có điều kiện để giáo dục cải tạo, hoàn lương thì vô hình chung, pháp luật đã bị phản tác dụng.
Kết luận chương 1
Qua việc nghiên cứu lý luận về bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt, tác giả cho rằng:
Một là, quyền con người là một vấn đề luôn được dư luận trong nước và quốc tế quan tâm, luôn là cái đích hướng tới của một nhà nước dân chủ, tiến bộ. Một Nhà nước chỉ thật sự là nhà nước pháp quyền khi các quyền của công dân, quyền của con người trong đất nước đó được bảo đảm và bảo vệ bằng pháp luật.
Hai là, trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong việc bảo đảm quyền con người trong tất cả các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Có thể khẳng định rằng, quyền con người ở Việt Nam không ngừng được phát huy và sự tham gia tích cực của người dân vào mọi mặt đời sống kinh tế xã hội của đất nước là nhân tố quan trọng góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Ba là, quyền con người luôn luôn gắn liền với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hoá của đất nước. Do vậy không thể áp đặt hoặc sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô thức của nước này cho nước khác.
Bốn là, trong bất kỳ một nhà nước pháp quyền nào, các quy định của pháp luật hình sự đều có ý nghĩa hết sức quan trọng là nhằm bảo vệ quyền và tự do của con người và của công dân, tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm của công dân khác, đồng thời còn để tránh sự tùy tiện của những người thực thi công vụ.