Những Giá Trị Có Thể Vận Dụng Ở Việt Nam Về Bảo Đảm Quyền Con Người Của Người Bị Hạn Chế Quyền Tự Do Trong Tố Tụng Hình Sự

Tòa án các cấp trong hệ thống luật pháp của Canada có thẩm quyền xét xử các vụ án liên quan đến các quyền được Hiến chương ghi nhận. Trong đó, Tòa án tối cao Canada là cơ quan xem xét, giải quyết cuối cùng vấn đề này. Hiến chương cũng quy định thẩm quyền của Tòa án xem xét các quy định trái với Hiến chương cũng như quyền hủy bỏ các quyết định đó.

Ở Newzealand việc thực hiện và thi hành Luật nhân quyền thuộc về các cơ quan Chính phủ, các tổ chức giám sát thuộc Chính phủ, các ủy ban và Tòa án đặc biệt. Tòa án thi hành Luật nhân quyền thông qua việc giải quyết các tranh chấp trước tòa. Đồng thời thông qua truyền thông của luật án lệ, thẩm phán có thể đề ra các nguyên tắc cơ bản nhất định liên quan đến các quyền của cá nhân mà Tòa án sẽ thi hành.

Căn cứ vào Điều 66 của Hiến pháp ngày 4/10/1958, việc bảo vệ các quyền cơ bản của con người được giao cho các cơ quan tư pháp, đó là cơ quan bảo vệ tự do cá nhân. Cơ quan tư pháp phải đảm bảo rằng các nguyên tắc tự do cá nhân cũng như các nguyên tắc không ai có thể bị bắt giữ một cách tùy tiện được tuân thủ trong luật.

Nhân quyền tại Cộng hòa Liên bang Đức được ghi nhận và bảo vệ theo Hiến pháp 1948. Tất cả các Tòa án Đức phải trực tiếp tuân thủ Hiến pháp. Vi phạm Hiến pháp có thể được xem xét tại bất cứ trình tự tố tụng nào. Bất cứ Tòa án nào cũng có thể hủy bỏ hay bãi bỏ Luật hành chính hay tư pháp nếu vi phạm Hiến pháp. Bất cứ ai cũng có quyền khiếu nại về sự vi phạm quyền cơ bản của họ theo Điều 1 đến Điều 18, hoặc quyền công dân hay tư pháp của họ theo Điều 20, 33, 38, 101, 104 trước Tòa án Hiến pháp liên bang. Việc đại diện thông qua luật sư hay giáo sư là cần thiết chỉ cho các buổi thẩm vấn tại tòa.

1.3.2. Những giá trị có thể vận dụng ở Việt Nam về bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự

Pháp luật Việt Nam về QCN luôn luôn hướng tới sự đồng bộ, thống nhất trên cơ sở kế thừa, vận dụng những giá trị tiến bộ với pháp luật quốc tế. Đảm bảo sự đồng bộ với pháp luật quốc tế là tất yếu theo nguyên tắc tự nguyện thực hiện các cam kết quốc tế trong luật quốc tế hiện đại. Điều này đặc biệt cần thiết với QCN, một vấn đề nhạy cảm là thành quả chung của nhân loại tiến bộ.

Nội dung pháp luật Việt Nam đã sẵn có sự tương đồng với pháp luật quốc tế về các giá trị của QCN như: Quyền chính trị, quyền tự do cá nhân, quyền trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa. Điều độc đáo là, kể cả khi chưa tham gia vào các công ước quốc tế về QCN, những nội dung cơ bản về QCN đã sẵn có trong 4 bản Hiến pháp, Bộ luật và các văn bản quy dưới luật luật khác như [Xem Phụ lục 1]. Tuy nhiên, để phù hợp hơn với chuẩn mực quốc tế về QCN, Việt Nam một mặt đã tích cực tham gia vào các điều ước quốc tế về QCN. Mặt khác, sửa đổi pháp luật Việt Nam cho phù hợp với chuẩn mực quốc tế, với các điều ước quốc tế Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, tham gia hầu hết các điều ước quốc tế cơ bản về QCN, đã nội luật hoá các điều ước quốc tế đó vào hệ thống pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó Việt Nam cũng thường xuyên tham gia đối thoại nhân quyền với các nước như Hoa Kỳ, Thụy Sỹ, Australia, và EU. Ngoài ra, Việt Nam cũng chủ động xây dựng báo cáo kiểm điểm định kỳ UPR về việc thực hiện QCN ở Việt Nam.

Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia phần lớn và cam kết thực hiện ở cả hai phương diện lập pháp và thực tiễn các văn kiện về QCN Điều đó được thể hiện trong luật TTHS của nước CHXHCN Việt Nam ở mức độ khác nhau: có thể quy định là nguyên tắc cơ bản, có thể là trong các quy định cụ thể. TTHS hiện hành có các nguyên tắc như: Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án hình sự, tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân; bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, suy đoán vô tội (tuy còn chưa rò), quyền bào chữa, quyền kháng cáo, quyền minh oan.

Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã đưa Chương "Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của công dân" từ Chương V trong Hiến pháp năm 1992 về Chương II, việc thay đổi vị trí nói trên xác định QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ở vị trí trang trọng hàng đầu trong Hiến pháp. Việc thay đổi này là sự kế thừa các Hiến pháp trước đó và Hiến pháp của nhiều nước trên thế giới, thể hiện quan điểm đề cao nhân tố con người của Đảng và Nhà nước ta.

Trước đây theo quy định của Hiến pháp, cũng như của Bộ luật TTHS, công dân có quyền mời luật sư khi bị khởi tố bị can, bị cáo. Đến nay, Hiến pháp đã bổ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.

sung là người bị bắt, kể cả bắt quả tang, rồi người bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra đều có quyền tự mình bào chữa hoặc mời luật sư bào chữa cho mình. Nhằm đảm bảo tính khách quan trong quá trình thực thi nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành TTHS, tránh oan sai đối với người vô tội.

Hiến pháp lần này làm rò hơn nguyên tắc suy đoán vô tội. Trước đây, chúng ta quy định rằng công dân không có tội khi chưa có bản án có hiệu lực của tòa án kết tội người đó. Bây giờ thêm một điều kiện rất quan trọng đó là việc buộc tội phải được chứng minh thì mới có bản án.

Bảo đảm quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 7

Một vấn đề không kém phần quan trọng cũng cần phải quan tâm là yêu cầu người bị xét xử phải được tòa án xét xử đúng trình tự và đúng thời hạn luật định. Tất cả những điều đó đều là những quy định mở, để cho những bộ luật, đạo luật sắp tới đây có những quy định cụ thể bảo vệ cho công dân, để khắc phục được những oan sai như trường hợp của ông Nguyễn Thanh Chấn.

Chương về QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân thể hiện trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã được đối chiếu toàn diện với tiêu chuẩn của các quy định nhân quyền của Công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Đặc biệt việc ghi nhận cả ba nghĩa vụ của nhà nước cơ bản và rò ràng về tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm QCN theo tinh thần của luật nhân quyền quốc tế; ghi nhận một số quyền mới gồm: quyền sống (Điều 19), các quyền về văn hóa (Điều 41), quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42)…. đã làm cho chế định này của Hiến pháp phù hợp hơn với nội dung của các điều ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên.

TTHS, xét cho cùng là quá trình giải quyết trên cơ sở pháp luật các xung đột giữa một bên là nhà nước với một bên là người bị cho là thực hiện một hành vi tội phạm. Ở Mỹ người ta thường nói: Vụ án bang NewYork kiện Quarle, vụ bang Colorado kiện Spring… [25, tr.79]. Trong quá trình này luôn cần đến một vị trọng tài đó là tòa án. Trong đó, QCN của bên bị buộc tội luôn phải được quan tâm đầu tiên. Người bị buộc tội là khái niệm đang tranh luận trong khoa học luật TTHS.

Chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng người bị buộc tội bao gồm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo [16, tr.3]

Về quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: Bộ luật TTHS Việt Nam quy định khá đầy đủ các quyền của người bị buộc tội như: quyền được xét xử công bằng bởi một tòa án độc lập, vô tư; quyền được biết mình bị buộc tội về tội gì; quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình; quyền được được chứng minh sự vô tội của mình bằng việc đưa ra tài liệu đồ vật, yêu cầu; quyền được khiếu nại các quyết định cua các cơ quan tiến hành tố tụng; quyền được tham gia phiên tòa và tranh luận tại phiên tòa; quyền không bị xét xử một cách quá chậm trễ thê hiện ở các quy định về thời hạn tạm giữ để khởi tố vụ án, thời hạn điều tra, thời hạn xét xử. Ví dụ hết thời hạn tạm giữ nếu cơ quan điều tra không có căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ…

Khi một người bị buộc tội thì họ phải được xét xử tại tòa án độc lập, công khai và công bằng. Cụ thể hóa nguyên tắc này, Hiến pháp cũng như luật TTHS Việt Nam có những quy định chặt chẽ về thủ tục xét xử vụ án hình sự tại tòa án trong đó ghi nhận vai trò của tòa án trong việc xét xử đồng thời quy định các quyền của bị cáo tại giai đoạn xét xử. Đó là việc quy định cụ thể thời hạn xét xử cho từng loại tội cụ thể, quy định quyền của bị cáo trước tòa như bào chữa, nhờ người bào chữa tranh tụng bình đẳng với bên buộc tội, quy định quyền kháng cáo và nguyên tắc hai cấp xét xử. Những quy định này nhằm đảm bảo quyền được xét xử công bằng và có một bản án công bằng của người bị buộc tội.

Nói tóm lại, pháp luật Việt Nam về QCN đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện, thể hiện ở Hiến pháp, luật, văn bản dưới luật, ở các điều ước quốc tế Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia, thể hiện ở tất cả các nội dung của QCN, đảm bảo được tính đầy đủ, cụ thể, đồng bộ của hệ thống pháp luật. Từ góc độ bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nghiên cứu so sánh pháp luật TTHS quốc tế cho thấy rằng pháp luật TTHS nước ta đã từng bước hội nhập với pháp luật quốc tế về lĩnh vực này. Các quy định của BLTTHS nước ta đã thể hiện tương đối đầy đủ các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến bảo đảm QCN trong TTHS, nhất là trong quy định các nguyên tắc tố tụng, quy định các quyền tố tụng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và các trình tự, thủ tục khác.

Kết luận Chương 1


QCN trong TTHS là mọt lĩnh vực đặc biệt của QCN nói chung, được hiểu là quyền công dân của những người có quyền và nghĩa vụ pháp lý cần được giải quyết trước Tòa án, được thể chế hóa thành quyền của những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật và được bảo đảm thực hiện thong qua HĐTT.

Đảm bảo QCN được hiểu là sự đảm bảo bằng chính các yếu tố đã tạo ra nó để cho nó tồn tại và phát triển, như bảo đảm về chế độ chính trị, kinh tế, nền dân chủ xã hội… Còn bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS là bảo đảm các yếu tố, điều kiện để thực hiện QCN trong TTHS như: Hệ thống các quy phạm pháp luật; hệ thống các cơ quan tố tụng; năng lực, trình độ, chuyên môn của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng; hướng dẫn áp dụng pháp luật và tuyên truyền giáo dục pháp luật; cơ sở vật chất, kỹ thuật đáp ứng với yêu cầu của hoạt động; bảo đảm quốc tế đối với QCN của người bị hạn chế quyền tự do ngoài các bảo đảm QCN nói chung. Cho nên, đảm bảo QCN nói chung và đảm bảo QCN của người bị hạn chế quyền tự do TTHS chính là mục tiêu và động lực nhằm góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân đặc biệt coi trọng.

Hiện nay, đảm bảo QCN nói chung và QCN trong TTHS đang là một trong những nội dung quan trọng, những yêu câu, thách thực lớn cả về lý luận và thực tiễn của những người làm công tác nghiên cứu lý luận cũng như những người hoạt động thực tiễn nhằm góp phần vào công cuộc đổi mới ở nước ta vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.

Chương 2

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ HẠN CHẾ QUYỀN TỰ DO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

2.1. Quy định pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do

2.1.1. Quy định pháp luật Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2003 liên quan tới bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do

Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của Nhà nước ta được Quốc hội thông qua ngày 28-6- 1988 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01- 01-1989. Bằng việc ban hành bộ luật này, lần đầu tiên pháp luật TTHS được pháp điển hóa hệ thống trong một văn bản thống nhất. Cùng với các chế định khác, việc bảo đảm QCN trong TTHS được quy định trong BLTTHS 1988 tương đối đầy đủ, toàn diện và hệ thống. Tính đầy đủ, toàn diện và hệ thống đó của BLTTHS thể hiện trong các điểm sau đây:

Thứ nhất, BLTTHS 1988 quy định các nguyên tắc tố tụng quan trọng bảo đảm QCN. BLTTHS 1988 quy định hệ thống các nguyên tắc tố tụng khác nhau, trong đó nhóm nguyên tắc bảo đảm QCN chiếm vị trí quan trọng và là nhóm nguyên tắc được quy định đầu tiên trong BLTTHS. Cụ thể là:

+ Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (điều 3).

+ Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật (điều 4).

+ Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân (điều 5).

+ Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự và nhân phẩm (điều 6).

+ Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân (điều 7).

+ Nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội, nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án (điều 10).

+ Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo (điều 12).

+ Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án (điều 20).

+ Nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại và tố cáo của công dân đối với hoạt động của cơ quan tiến hành TTHS (điều 24).

Ngoài những nguyên tắc trực tiếp liên quan đến QCN trong TTHS, BLTTHS 1988 cũng quy định các nguyên tắc tố tụng khác bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện trong thực tiễn xét xử như nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc người tham gia tố tụng, nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể, xét xử công khai, nguyên tắc Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật v.v…

Thứ hai, BLTTHS 1988 quy định tương đối cụ thể về địa vị pháp lý (quyền và nghĩa vụ) của các chủ thể TTHS.

Bộ luật tố tụng hình sự 1988 quy định địa vị pháp lý của người tham gia tố tụng như bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng… Địa vị pháp lý cũng thay đổi tùy theo giai đoạn tố tụng. Các quyền tố tụng được quy định như quyền được biết bị khởi tố, truy tố về tội gì, quyền tham gia phiên tòa, quyền bào chữa hoặc bảo vệ quyền lợi, quyền đưa ra chứng cứ, các yêu cầu, quyền tranh luận tại phiên tòa… là những bảo đảm quan trọng để người tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong vụ án hình sự. Đối với người tiến hành tố tụng, BLTTHS 1988 quy định những trường hợp từ chối hoặc phải bị thay đổi để đảm bảo cho họ thực hiện nhiệm vụ tố tụng một cách vô tư, khách quan.

Tuy nhiên, từ góc độ bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân và mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước thông qua cơ quan, người tiến hành tố tụng thì BLTTHS 1988 còn có hạn chế lớn là chưa quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng.

Thứ ba, BLTTHS 1988 quy định cụ thể các biện pháp ngăn chặn gồm mục đích, căn cứ áp dụng (điều 61), thẩm quyền áp dụng và thủ tục áp dụng đối với từng biện pháp ngăn chặn cụ thể như bắt người (điều 62- 65), tạm giữ (điều 68-69), tạm

giam (điều 70), cấm đi khỏi nơi cư trú (điều 74), bảo lĩnh (điều 75), đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm (điều 76). Đồng thời BLTTHS 1988 cũng quy định việc hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn (điều 77) v.v…

Thứ tư, BLTTHS 1988 quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng nhằm bảo đảm QCN. Là một văn bản luật hình thức, BLTTHS 1988 quy định tương đối cụ thể các trình tự, thủ tục tố tụng nhằm bảo đảm giải quyết vụ án hình sự chính xác, khách quan, toàn diện trên cơ sở tôn trọng và bảo vệ các QCN như quy định rò ràng, chặt chẽ thẩm quyền tố tụng cụ thể cho các cơ quan và người tiến hành tố tụng, đặc biệt là thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng nói chung và biện pháp ngăn chặn nói riêng; quy định căn cứ và thời hạn áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng; quy định các thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng và các thủ tục tố tụng có liên quan đến quyền tự do, dân chủ công dân như thủ tục bắt người, thủ tục khám xét, thu giữ, thủ tục xét hỏi, lấy lời khai, hỏi cung, thủ tục phiên tòa v.v…

Thứ năm, BLTTHS 1988 quy định các chế tài tố tụng đối với việc vi phạm QCN. Đồng thời với việc quy định các trình tự, thủ tục tố tụng, BLTTHS 1988 cũng quy định các chế tài tố tụng đối với các vi phạm thủ tục tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng, bảo đảm cho các trình tự, thủ tục tố tụng được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất, khách quan, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

Tóm lại, so với các văn bản pháp luật TTHS trước đây, BLTTHS 1988 đã có một bước phát triển lớn liên quan đến việc tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân. Các chế định khác nhau của BLTTHS 1988 đều thể hiện rò nét nguyên tắc tôn trọng và bảo đảm QCN trong TTHS. Tuy nhiên, qua hơn 15 năm thực hiện và trước yêu cầu của việc đổi mới tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta hiện nay, nhiều quy định của BLTTHS 1988 đã tỏ ra bất cập:

BLTTHS chưa quy định rò ràng, cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của những người tiến hành tố tụng; địa vị tố tụng của những người tham gia tố tụng vẫn chưa thật đầy đủ, nhất là quyền tố tụng của công dân; khiếu nại, tố cáo trong TTHS chưa

Xem tất cả 143 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí