MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảm bảo giải quyết việc làm, tiền lương và thu nhập cho người lao động là một trong những nội dung cơ bản nhất trong việc thực hiện và bảo đảm quyền con người và cũng là vấn đề cốt lõi của mọi quốc gia trên toàn thế giới. Bởi lẻ giải quyết việc làm luôn gắn liền chặt chẽ với sự ổn định kinh tế, chính trị và xã hội. Chính vì thế vấn đề này luôn được coi là nội dung cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong tình hình của nước ta hiện nay.
Bảo vệ người lao động trong lĩnh vực việc làm, tiền lương trong pháp luật lao động luôn là nội dung trọng tâm được mọi người quan tâm. Có thể thấy nhiều qui định pháp luật được ban hành từ giai đoạn đầu, khi nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, khi đó thị trường người lao động và các quan hệ lao động chưa vận động hoàn toàn theo qui luật của nó đã quan tâm đến quyền của người lao động. Hiện nay đất nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề giải quyết việc làm và đảm bảo thu nhập cho người lao động cũng đã được đưa vào trong các mục tiêu chương trình xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế, nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi danh mục các nước kém phát triển vào năm 2020, trong đó vấn đề giải quyết việc làm đảm bảo nguồn thu nhập ổn định cho người lao động gắn liền với việc tăng trưởng kinh tế, ổn định và phát triển bền vững là vấn đề cơ bản được quan tâm hàng đầu
Bên cạnh đó, đời sống kinh tế ngày càng nâng cao kéo theo sự phát triển kinh tế về nhận thức của người lao động. Do đó họ có ý thức hơn trong việc bảo vệ các quyền lợi của mình, đặc biệt là bảo vệ người lao động trong lĩnh vực việc làm, tiền lương. Vì thế nhu cầu bảo vệ người lao động trong lĩnh vực việc làm, tiền lương là hoàn toàn hợp lí và thiết thực.
Trong thời gian qua, nhà nước ta cũng đã sửa đổi và ban hành một số các văn bản pháp luật có liên quan đến việc bảo vệ người lao động trong lĩnh vực việc làm, tiền lương cho người lao động như BLLĐ, luật công đoàn. Tuy nhiên, qua triển khai áp dụng và thực hiện các văn bản qui định đã bộc lộ nhiều thiếu sót, chưa thật sự đảm bảo yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn đời sống xã hội, do bị hạn chế cả về số lượng và chất lượng, ảnh hưởng đến việc bảo vệ hiệu quả người lao động.
Chính vì lí do đó, tôi chọn đề tài “Bảo vệ người lao động trong lĩnh vực việc làm, tiền lương theo pháp luật lao động Việt Nam – Thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng” làm luận văn Thạc sỹ luật học của mình. Kết quả của luận văn sẽ góp phần làm phong phú hơn kho tàng lí luận về bảo vệ quyền của người lao động nói chung và trong lĩnh vực việc làm, tiền lương và thu nhập của người lao động nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo vệ người lao động trong lĩnh vực việc làm, tiền lương trong pháp luật lao động Việt Nam - 1
- Lý Luận Về Bảo Vệ Người Lao Động Trong Lĩnh Vực Việc Làm, Tiền Lương
- Các Biện Pháp Bảo Vệ Người Lao Động Trong Lĩnh Vực Việc Làm, Tiền Lương
- Thực Trạng Các Qui Định Của Pháp Luật Lao Động Về Bảo Vệ Người Lao Động Trong Lĩnh Vực Việc Làm, Tiền Lương Và Thực Tiễn Tại Thành Phố Đà
Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.
Bảo vệ người lao động nói chung là một vấn đề nóng bỏng của các quốc gia và nhất là một nước đang phát triển như Việt Nam chúng ta hiện nay. Do vậy mà trong thời gian qua, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này. Về luận án Tiến sỹ của tác giả Nguyễn Thị Kim Phụng với đề tài “ Pháp luật người lao động với vấn đề bảo vệ người lao động trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam ” (2006), Nguyễn Thị Nghĩa, “Pháp luật tiền lương ở nước ta, thực trạng và phương hướng hoàn thiện”, Đại học Quốc gia Hà Nội (2004), Trần Kiều Trang, "Pháp luật lao động về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động" Đại học Luật Hà Nội (2006) và Bảo đảm quyền con người trong pháp luật lao động Việt Nam của Phó giáo sư, Tiến sỹ Lê Thị Hoài Thu. Tuy nhiên các công trình trên chỉ tập trung nghiên cứu trong phạm vi pháp luật lao động và một số đối tượng có nghiên cứu rộng hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Luận văn làm rõ thêm những vấn đề lí luận và thực tiễn của việc bảo vệ người lao động trong lĩnh vực quan trọng là việc làm, tiền lương và thu nhập trong bộ luật lao động 2012 để từ đó đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật lao động ở nước ta.
- Nhiệm vụ nghiên cứu :
+ Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bảo vệ người lao động nói chung và trong lĩnh vực việc làm, tiền lương theo pháp luật lao động Việt Nam nói riêng.
+Xem xét đánh giá các qui định trong pháp luật lao động về bảo vệ người lao động trong lĩnh vực việc làm, tiền lương và thu nhập cũng như trong thực tiễn thực hiện.
+Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật lao động ở nước ta hiện nay
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu quyền của người lao động trong lĩnh vực việc làm, tiền lương và thu nhập cũng như bảo vệ người lao động trong lĩnh vực này. Ngoài ra luận văn còn có đề cập đến một số công ước quốc tế và một số qui định của các quốc gia trên thế giới trong việc bảo vệ người lao động ở lĩnh vực lao động, việc làm tiền lương để từ đó đưa ra những kinh nghiệm thực tiễn cho pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên, bảo vệ người lao động trong lĩnh vực pháp luật lao động Việt Nam là một đề tài rất rộng, tác giả không có tham vọng giải quyết hết
mọi vấn đề trên mà luận văn chỉ đi sâu tập trung vào bảo vệ người lao động trong lĩnh vực việc làm và tiền lương. Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận, tác giả tập trung đánh giá thực trạng các qui định của pháp luật lao động Việt Nam về bảo vệ người lao động trong lĩnh vực việc làm, tiền lương và thực tiễn tại thành phố Đà nẵng, để từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo vệ người lao động trong lĩnh vực này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng các quan điểm của Đảng và nhà nước ta trong sự nghiệp phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm phát huy mọi tiềm năng trong sự nghiệp hiện đại hóa đất nước. Ngoài ra đề tài còn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp lí luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, triết học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Đồng thời các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh bình luận, qui nạp, diễn giải được sử dụng chủ yếu, làm cơ sở cho việc nghiên cứu.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, luận văn gồm có ba chương :
Chương 1: Khái quát chung về bảo vệ người lao động trong lĩnh vực việc làm, tiền lương trong pháp luật lao động Việt Nam
Chương 2 : Thực trạng các qui định của pháp luật lao động Việt Nam về bảo vệ người lao động trong lĩnh vực việc làm, tiền lương và thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo vệ người lao động trong lĩnh vực việc làm, tiền lương từ thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng.
Chương 1 : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG VÀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC VIỆC LÀM, TIỀN LƯƠNG TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
1.1. Quan niệm về bảo vệ người lao động
Trong bất kỳ xã hội nào lao động vẫn luôn là một nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển kinh tế - xã hội. Ănghen viết : “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống kinh tế xã hội, đến một mức và trên một ý nghĩa nào đó chúng ta phải thừa nhận rằng : Lao dộng đã tạo ra chính cả bản thân con người” [5, tr.210].
Như vậy xã hội tồn tại và phát triển được trước hết là nhờ vào sản xuất vật chất. C.Mác viết : “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ là chúng ta sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng ta sản xuất bằng cái nào, với những tư liệu lao động nào”, đó chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong đó người lao động có vai trò quyết định [5,tr.220].
Trong quan hệ lao động luôn tồn tại sự bất bình đẳng giữa người lao động và người sử dụng lao. Người lao động bị phụ thuộc về mặt tổ chức, phụ thuộc về kinh tế, phụ thuộc về môi trường làm việc…Do đó quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, trong đó có quyền được bảo vệ việc làm, tiền lương ổn định là khó có thể được đảm bảo. Vì vậy một trong những nhiệm vụ hàng đầu của pháp luật nói chung là phải bảo vệ được người lao động khi tham gia vào các quan hệ lao động. Chính vì vậy mà hàng loạt các vấn đề đặt ra có liên quan trực tiếp đến việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực lao động cần giải quyết một cách hợp lí như: bảo đảm quyền tự do việc làm của người lao động, đảm bảo an toàn về tính mạng sức khỏe…Cùng với người lao động, công cụ lao động là thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất ngày càng được cải tiến. Chính sự chuyển đổi, cải tiến và hoàn thiện không ngừng này đã gây ra những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản
xuất, xét cho cùng đây cũng là nguyên nhân cơ bản của sự cải tiến xã hội. Trải qua các cuộc cách mạng khoa học, cùng với sự tiến triển của sản xuất, khoa học ngày càng đóng vai trò quan trong trong sản xuất kinh doanh. Mặc dù vậy, lao động vẫn là nhân tố hàng đầu không thể thiếu của mọi quá trình sản xuất kinh doanh. Cho dù ngày nay, khoa học công nghệ đã phát triển đến trình độ tự động hoá ở một số lĩnh vực, nhưng người lao động vẫn đóng vai trò then chốt trong việc quản lí và sử dụng các thiết bị, máy móc và công nghệ hiện đại. Chính vì thế hiểu theo nghĩa duy nhất, bảo vệ người lao động bao gồm mọi quá trình nhằm phòng ngừa, chống lại các nguy cơ xâm hại đến con người và cuộc sống của họ. Trong phạm vi luật lao động, có thể hiểu bảo vệ người lao động là phòng ngừa và chống lại mọi sự xâm hại đến danh dự, nhân phẩm, tính mạng, quyền và lợi ích của người lao động, từ phía người sử dụng lao động và trong quá trình lao động.
Người lao động có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển, ổn định của một quốc gia và cũng là yếu tố quyết định việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khác trong quá trình sản xuất kinh doanh. Ở đâu có lực lượng lao động hùng mạnh thì ở đó kinh tế và xã hội được đảm bảo, phát triển một cách ổn định và thịnh vượng. Như vậy pháp luật thực hiện bảo vệ người lao động với tư cách là bảo vệ một chủ thể của xã hội. Trước hết là bảo vệ sức lao động, thu nhập và lợi ích từ lao động của họ. Và cao hơn nữa, là bảo vệ các nhu cầu cơ bản của người lao động như việc làm, các cơ hội phát triển… Sự bảo vệ này được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật tránh việc người sử dụng lao động chèn ép, trục lợi, bóc lột… sức lao động của người lao động.
1.2. Sự cần thiết của việc bảo vệ người lao động trong lĩnh vực việc làm, tiền lương
Kinh tế thị trường luôn mang tính cạnh tranh gay gắt trên thị trường cũng chính vì điều đó, kinh tế thị trường đã trở thành một nền kinh tế có tác
dụng thúc đẩy phát triển kinh tế. Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường tới quan hệ lao động là điều dễ thấy, bởi lẽ quan hệ này vừa chứa đựng yếu tổ kinh tế, vừa chứa đựng yếu tố xã hội sâu sắc. Hơn nữa sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt vì nó gắn liền và không thể tách rời khỏi bản thân con người. Bởi vậy các quốc gia, khi xây dựng chính sách kinh tế - xã hội đều phải bảo vệ người lao động vì chỉ dựa vào thị trường, tự nó không thể đảm bảo được, vì đấy là do bản chất của cơ chế thị trường.
Trong lĩnh vực lao động, kinh tế thị trường đã mở ra nhiều điều kiện thuận lợi để phát huy các nguồn lực, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động và có cơ hội nâng cao đời sống. Sự cạnh tranh không chỉ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mà còn cả trong lĩnh vực lao động, đã góp phần tạo ra nền kinh tế đa dạng và phong phú, năng động và tốc độ phát triển nhanh. Tuy vậy, để đáp ứng được tính nhu cầu và linh hoạt của thị trường, người sử dụng lao động phải thường xuyên thay đổi kế hoạch, quy mô sản xuất, từ đó các kế hoạch về việc làm cũng đương nhiên thay đổi. Bên cạnh đó, những tác động từ sự khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra trong những năm gần đây, khiến cho sức ép thị trường kinh tế ngày càng đè nặng lên những người sử dụng lao động. Họ phải tìm mọi cách để duy trì sự tồn tại và phải cắt bỏ chi phí một cách tối đa mới có thể đảm bảo tính linh hoạt theo nhu cầu của thị trường như : thuê mướn, tuyển dụng, tăng giảm lao động, tự do lựa chọn công việc và nơi làm việc. Tuy nhiên, do vị thế của người lao động là yếu hơn so với người sử dụng lao động, nếu không được quan tâm, kiểm soát chặt chẽ từ phía nhà nước thì người lao động sẽ bị thiệt thòi như: bị mất việc, cắt giảm lương một cách vô lí.
Thêm vào đó với điều kiện kinh tế thị trường, quá trình hội nhập và toàn cầu hóa như hiện nay, đòi hỏi trình độ công nghệ thường xuyên phát triển với tốc độ cao. Số lượng các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế ra đời và hoạt động ngày càng nhiều, trong khi đó thị trường tiêu thụ không có chiều hướng
gia tăng và có nhiều biến động bất thường. Nhiều người lao động trong nước bị thất nghiệp nhưng phải nhập lao động từ nước ngoài hoặc vì lí do thay đổi dây chuyền sản xuất mà doanh nghiệp có thể tuyển chọn lao động mới, để tránh việc đào tạo nâng cao tay nghề làm tốn kém chi phí của người sử dụng lao động …Đó cũng là điều dễ hiểu trong cơ chế thị trường, vì mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp là tìm kiếm lợi nhuận, giảm thiểu mọi chi phí như: lương và thu nhập và các điều kiện sống và làm việc của người lao động mà đáng lí họ phải được quyền hưởng và đối xử tốt hơn.
Các quan hệ lao động không chỉ được thiết lập tại các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong nước mà còn trong các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nó đã vượt ra khỏi phạm vi lãnh thổ của một quốc gia, điều này đã khiến cho vấn đề kiểm soát và bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động càng trở nên khó khăn, phức tạp. Hơn nữa trong kinh doanh, các doanh nghiệp có quyền mở rộng hoặc thu hẹp qui mô sản xuất hoặc thậm chí là giải thể một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp. Ngoài ra với tính tự phát của cơ chế thị trường, có thể làm xuất hiện thời kỳ suy thoái trong các chu kỳ sản xuất kinh doanh. Làm mất cân đối trong các ngành nghề và kéo theo hàng loạt các vấn đề xảy ra như : thất nghiệp, trật tự an toàn xã hội…
Tất cả các vấn đề trên của cơ chế thị trường đều có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống xã hội hằng ngày nhất là cuộc sống của người lao động mà nhà nước bằng pháp luật lao động phải can thiệp, bảo vệ họ nhằm hạn chế và giảm thiểu những vấn đề tiêu cực của cơ chế thị trường đã tác động đến người người lao động.
Pháp luật lao động có sứ mệnh của mình là tồn tại và phát triển nhằm mục đích bảo vệ các quyền, lợi ích của người người lao động. Tư tưởng bảo vệ người người lao động được xuất phát từ quan điểm coi mục tiêu và động lực của sự phát triển là “Vì con người, phát huy nhân tố con người, trước hết là người lao động” [10,tr.3]; cho đến nay, hầu như tất cả các nước đều đề cập