Bảo Vệ Các Quyền Con Người Bằng Những Quy Phạm Của Chế Định Lỗi

đó không phải hành vi phạm tội, không cấu thành tội phạm, vì vậy, người đó không phải chịu trách nhiệm hình sự. Điển hình cho trường hợp này là người gây ra thiệt hại cho xã hội khi có sự kiện bất ngờ, mà luật hình sự quy định tại Điều 11. Tức là, khi có sự kiện bất ngờ xảy ra, người lâm vào tình trạng đó không nhận thức được hành vi gây nguy hiểm cho xã hội của mình, không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước được khả năng xảy ra hậu quả cho xã hội của hành vi do hoàn cảnh khách quan tác động một cách bất ngờ và làm người đó không thể lựa chọn theo ý chí của mình. Do vậy, hành vi đó không có lỗi, không phải là tội phạm.

Việc luật hình sự quy định tội phạm phải là hình vi được thực hiện một cách có lỗi tại khái niệm tội phạm đã thể hiện rõ nét nội dung bảo vệ các quyền con người, khẳng định dứt khoát rằng: không có lỗi thì không có tội, từ đó tránh sự quy tội khách quan từ phía các cơ quan công quyền.

Thứ ba, tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự: Đây là dấu hiệu, cũng là đặc điểm pháp lý của tội phạm. Cùng với hai dấu hiệu về mặt khách quan và mặt chủ quan, thì dấu hiệu thứ ba này cũng là một dấu hiệu cơ bản của tội phạm nên không thể thiếu. Nếu thiếu, hành vi mặc dù có nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện một cách có lỗi thì hành vi đó cũng không phải là tội phạm. Tức là, hành vi nào bị luật hình sự coi là tội phạm, quy định trong luật hình sự thì hành vi đó mới là tội phạm. Chẳng hạn, hành vi tuy gây nguy hiểm cho xã hội nhưng tính chất không đáng kể (khoản 4 Điều 8 Bộ luật hình sự) thì không phải là tội phạm. Người thực hiện hành vi đó đương nhiên không phải xử lý về hình sự, mà bằng biện pháp khác.

Thứ tư, tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện: Năng lực trách nhiệm hình sự vừa là một đặc điểm của tội phạm, vừa là một điều kiện bắt buộc để mọi hành vi nguy hiểm cho xã hội trở thành tội phạm. Vì vậy, cùng với ba dấu hiệu cơ bản của tội phạm, được ghi nhận trong định nghĩa pháp lý của khái niệm tội phạm thể hiện nguyên tắc pháp

chế, nhân đạo của luật hình sự. Đây là một nội dung thể hiện bảo vệ các quyền con người thể hiện ở quy phạm về khái niệm tội phạm trong luật hình sự Việt Nam. Việc ghi nhận dấu hiệu này trong khái niệm tội phạm đã khẳng định dứt khoát rằng: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật hình sự cấm, trong khi người đó có năng lực trách nhiệm hình sự, mới trở thành chủ thể của tội phạm, và như vậy, mới có tội phạm xuất hiện. Nếu người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, mặc dù đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị luật hình sự cấm, thì người đó chắc chắn không phải chịu trách nhiệm hình sự, vì hành vi mà người đó thực hiện không phải là tội phạm. Do đó, nếu người không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà bị chịu trách nhiệm hình sự thì đó là sự vi phạm nội dung bảo vệ các quyền con người. Ví dụ: Người bị bệnh tâm thần cầm dao chém người khác thì người đó không phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, vì hành vi chém người đó không phải là tội phạm.

Nghiên cứu vấn đề bảo vệ các quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm của luật hình sự Việt Nam. Bên cạnh việc làm rõ chế định về tội phạm, chúng ta cần phải làm rõ một số chế định như: chế định phân loại tội phạm; chế định các giai đoạn thực hiện tội phạm; chế định đồng phạm. Từ đó làm rõ những nội dung bảo vệ các quyền con người thể hiện trong các chế định này.

* Chế định phân loại tội phạm là một chế định gần và liên quan mật thiết với khái niệm tội phạm. Tuy nhiên, nó không đồng nhất với khái niệm tội phạm, mà nó là một chế định khác, có tính độc lập tương đối. Chính vì vậy, trong luật hình sự thực định của nước ta từ Bộ luật hình sự năm 1985 đến Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành, nhà làm luật đã ghi nhận nó (chế định phân loại tội phạm) trong cùng một điều luật (Điều 8, khoản 1 là định nghĩa pháp lý về tội phạm; khoản 2 và 3 là phân loại tội phạm).

Từ việc làm rõ những nội dung bảo vệ các quyền con người thể hiện ở khái niệm tội phạm trong pháp luật hình sự thực định, qua đó cũng làm rõ cơ

sở, đồng thời làm rõ điều kiện của việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi mà bị luật hình sự coi là tội phạm. Nhưng, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện tội phạm đến đâu, ở mức độ nào để thỏa đáng đối với tính chất, mức độ nguy hại, hoặc hậu quả xảy ra do tội phạm gây ra… thì đòi hỏi nhất thiết phải áp dụng nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự. Để phân hóa trách nhiệm hình sự, nhất thiết phải phân loại tội phạm. Do vậy, phân loại tội phạm là một nội dung bảo vệ các quyền con người trong pháp luật hình sự. Sự thể hiện những nội dung bảo vệ các quyền con người đó có thể nhận thấy ở các quy phạm về phân loại tội phạm trong luật hình sự hiện hành của nước ta như sau:

Việc phân loại tội phạm theo khoản 2, khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự hiện hành thành 4 loại, bao gồm: Tội phạm ít nghiêm trọng; tội phạm nghiêm trọng; tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là thể hiện các nguyên tắc nhân đạo, tiến bộ trong luật hình sự. Tức là tính chất nguy hiểm của tội phạm đến đâu thì phải chịu trách nhiệm hình sự đến đó và, người phạm tội phải chịu áp dụng chế tài đối với tội phạm đó.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

Khi các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc này sẽ tránh trường hợp: người phạm tội ít nghiêm trọng nhưng lại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội nghiêm trọng, hay rất nghiêm trọng, thậm chí là tội đặc biệt nghiêm trọng. Bản chất và cơ sở của việc phân loại tội phạm là nhà làm luật căn cứ vào các tiêu chí sau: Tiêu chí một là tính chất của hành vi; tiêu chí hai là mức độ gây thiệt hại (hoặc đe dọa gây thiệt hại của hành vi); tiêu chí thứ ba là chế tài.

Tuy nhiên, sự phân loại tội phạm dựa trên 03 tiêu chí nêu trên là phân loại mang tính cơ sở và được ghi nhận ở phần chung, ngoài ra trên cơ sở phân loại tội phạm, nhà làm luật còn phân loại tội phạm tại phần riêng của Bộ luật hình sự, mà việc phân loại tại phần riêng còn có các tiêu chí riêng, như tiêu chí về khách thể được luật hình sự bảo vệ, ví dụ: Nhóm tội phạm xâm phạm

Bảo vệ các quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam - 5

tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người (chương XII); các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân (chương XIII); các tội xâm phạm quyền sở hữu (chương XIV)… Cạnh đó, trong phần riêng, nhà làm luật còn căn cứ vào tiêu chí thứ hai, đó là nhân thân của người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, mà với hành vi vi phạm luật mà một người thực hiện đáng lẽ ra không bị coi là tội phạm, nhưng vì bị xử phạt hành chính (bị áp dụng xử phạt bằng chế tài hành chính) đến thời điểm thực hiện lần thứ hai vẫn chưa hết thời hạn coi là chưa bị lý vi phạm hành chính. Hoặc mức độ gây thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra vượt mức mà pháp luật quy định xử lý bằng chế tài hành chính. Ví dụ: Tội trộm cắp tài sản (Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999). Ngoài ra, tại phần các tội phạm, nhà làm luật còn căn cứ vào tiêu chí "hình thức lỗi" của tội phạm. Ví dụ một số tội quy định ở các điều: 98; 99; 104; 106; 108; 109… Mặc dù, có tiêu chí riêng khi nhà làm luật phân loại tội phạm ở phần riêng của Bộ luật hình sự, và từ các tiêu chí này có tính quyết định xã hội nhất định. Tuy nhiên, ở đây tác giả chỉ tập trung chủ yếu vào sự phân loại tội phạm được thể hiện tại phần chung của Bộ luật hình sự.

Để làm rõ thêm nội dung bảo vệ các quyền con người thể hiện tại các quy phạm về phân loại tội phạm, chúng ta có thể phân tích thêm như sau:

Thứ nhất, nhà làm luật phân loại tội phạm dựa trên cơ sở tiêu chí 1 - Tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Mặc dù, mọi tội phạm đều có tính chất nguy hiểm cho xã hội, tuy nhiên về tính chất gây nguy hiểm cho xã hội giữa các loại tội phạm, nhóm tội phạm lại khác nhau và tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm có mối quan hệ qua lại với mức độ nguy hại do tội phạm gây ra. Giữa hai yếu tố này có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động với nhau. Trong đó, tính chất nguy hiểm cho xã hội thường giữ vai trò quyết định mức độ nguy hại của tội phạm. Ngược lại, mức độ nguy hại cho xã hội có vai trò phản ánh, tác động trở lại đối với tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Ví dụ: vẫn một hành vi giết người, nhưng tính chất nguy

hiểm cho xã hội nguy hiểm hơn đáng kể nếu thuộc trường hợp quy định tại điều n (tính chất côn đồ) khoản 1 Điều 93, và tính chất ít nguy hiểm hơn, nếu giết người thuộc trường hợp quy định tại Điều 96 Bộ luật hình sự (giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng), trong khi đó điểm n Điều 93 là giết người "có tính chất côn đồ" dễ dàng nhận thấy tính chất nguy hiểm khác nhau giữa hai trường hợp ví dụ nêu trên.

Vì thế, cũng dễ dàng nhận thấy mức độ gây thiệt hại (hoặc đe dọa gây thiệt hại) trong hai trường hợp này khác nhau. Trong hai trường hợp nêu trên, mức độ gây thiệt hại (hoặc đe dọa gây thiệt hại) của tội phạm quy định tại điểm n Điều 93, thường là lớn hơn so với mức độ gây thiệt hại (hoặc đe dọa gây thiệt hại) nếu tội phạm được thực hiện theo quy định tại Điều 96. Bởi lẽ, tội phạm được thực hiện theo Điều 96, thì chủ thể thực hiện tội phạm khi rơi vào tình thế phòng vệ do hành vi trái pháp luật hình sự mà người bị hại gây ra, và chủ thể thực hiện việc phòng vệ là quyền được pháp luật cho phép. Chỉ có điều chủ thể ấy lại thực hiện hành vi phòng vệ một cách quá sự cho phép của pháp luật - đây là sự kiện dẫn đến hậu quả pháp lý - bị luật hình sự coi là tội phạm. Trong trường hợp này, nếu như không có sự tấn công, không có hành vi trái pháp luật của người bị hại thì có thể chủ thể của tội phạm sẽ không thực hiện tội phạm - Ngược lại, hành vi giết người "có tính chất côn đồ" theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 93, chủ thể thực hiện tội phạm do tính côn đồ, coi thường pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật không nghiêm chỉnh, do vậy chủ thể dễ dàng thực hiện tội phạm, dễ dàng gây thiệt hại lớn cho xã hội, và mức độ gây ra thiệt hại trong trường hợp này thường là lớn hơn.

Có thể khẳng định rằng "tính chất nguy hiểm cho xã hội" của tội phạm là tiêu chí trước tiên và không thể thiết được khi phân loại tội phạm, nó thể hiện bản chất của tội phạm, thể hiện sự tác động tiêu cực đến sự tồn tại bình thường của các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Do vậy, nó (tính chất nguy hiểm cho xã hội) được nhà làm luật sử dụng để phân loại tội phạm và

thể hiện rõ trong luật thực định là sự thể hiện nội dung bảo vệ các quyền con người trong luật hình sự.

Thứ hai, phân loại tội phạm dựa trên tiêu chí mức độ gây nguy hại cho xã hội. Đây là tiêu chí nhất thiết nhà làm luật phải dựa vào khi phân loại tội phạm. Bởi lẽ, như trên đã phân tích, giữa tiêu chí mức độ gây nguy hại cho xã hội của tội phạm và tiêu chí tính chất gây nguy hiểm cho xã hội của tội phạm có mối quan hệ mật thiết với nhau ngoài vai trò có tính quyết định của tiêu chí thứ nhất đối với tiêu chí thứ hai, thì tiêu chí thứ hai (mức độ gây nguy hại cho xã hội của tội phạm) còn có mối quan hệ nhân quả đối với tiêu chí thứ nhất, trong đó tiêu chí thứ nhất là nguyên nhân, tiêu chí thứ hai là hậu quả (trong mối quan hệ nhân - quả của học thuyết Mác), luận chứng rằng: Nếu hành vi của một chủ thể nào đó không có tính chất nguy hiểm cho xã hội hoặc có nhưng tính chất nguy hiểm ít thì mức độ gây ra đối với xã hội sẽ không có, hoặc có nhưng không lớn. Ngược lại, nếu mức độ nguy hại cho xã hội xảy ra lớn thì ắt hẳn tội phạm đó được thực hiện do có tính chất nguy hiểm cho xã hội rất lớn - thể hiện rõ bản chất xã hội của tội phạm. Do vậy, mức độ gây nguy hại cho xã hội của tội phạm là một tiêu chí cần thiết để dựa vào khi phân loại tội phạm.

Thứ ba, tiêu chí tính chất lỗi: Tính chất lỗi là trạng thái tâm lý, là thái độ của người thực hiện hành vi tội phạm tội đối với tội phạm mà người đó gây ra. Là tiêu chí thuộc mặt chủ quan của tội phạm, thể hiện ý chí của người thực hiện tội phạm trong tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự, người thực hiện tội phạm hoàn toàn có cách lựa chọn hành vi của mình phù hợp với sự đòi hỏi bình thường của xã hội, thực hiện hành vi pháp luật cho phép, tuy nhiên, chủ thể thực hiện tội phạm lại lựa chọn cách là thực hiện hành vi bị luật hình sự cấm (mặc dù biết đó là hành vi bị luật hình sự cấm, hoặc là không hành động gì (mà đáng lẽ ra, trong trường hợp đó pháp luật buộc phải hành động để ngăn chặn thiệt hại không xảy ra). Điều đó có nghĩa rằng: Lỗi của

chủ thể thực hiện tội phạm có thể là lỗi cố ý hoặc là lỗi vô ý từ sự phân tích trên cho thấy: cũng như các tiêu chí khác, để phân loại tội phạm, tiêu chí tính chất lỗi cũng có quan hệ chặt chẽ với các tiêu chí mà nhà làm luật căn cứ để phân loại tội phạm. Chẳng hạn: Tính chất lỗi có mối quan hệ mật thiết với tính chất nguy hiểm của tội phạm. Điều đó thể hiện rõ ràng rằng: Nếu tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý thì tội phạm đó có tính chất nguy hiểm cho xã hội lớn hơn so với tội phạm được thể hiện do lỗi vô ý. Vì thế, mức độ gây nguy hại cho xã hội giữa tội phạm được thực hiện bằng hai hình thức lỗi (lỗi cố ý và vô ý) cũng khác nhau mà thường là mức độ gây nguy hại cho xã hội luôn lớn hơn nếu tội phạm được thực hiện bằng hình thức lỗi cố ý.

Như vậy, cùng với hai tiêu chí trước, tiêu chí thứ ba - hình thức lỗi (tính chất lỗi) là một trong các tiêu chí không thể thiếu được khi phân loại tội phạm. Đồng thời, đây là sự thể hiện nội dung bảo vệ các quyền con người bằng các quy phạm về phân loại tội phạm trong pháp luật hình sự.

Thứ tư, chế tài, là tiêu chí cơ bản để phân loại tội phạm, trong khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự, tiêu chí này đã được sử dụng và ghi nhận cụ thể và rõ ràng là tiêu chí thể hiện ý chí chủ quan của nhà làm luật trên cơ sở đánh giá, phân tích đặt trong mối tương quan với ba tiêu chí trước. Đồng thời, thể hiện tư duy lập pháp và tính khoa học, sự phù hợp giữa lý luận và thực tiễn. Với vai trò là thước đo, hậu quả pháp lý của hành vi mà bị luật hình sự cấm, tiêu chí này đồng thời làm cơ sở cho người hoặc cơ quan có thẩm quyền phân loại tội phạm được chính xác khi giải quyết vụ án, từ đó có biện pháp xử lý hình sự phù hợp, đạt hiệu quả trong công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm, cũng như là sự thể hiện nội dung bảo vệ các quyền con người.

Tóm lại, phân loại tội phạm chính xác, bảo đảm các tiêu chí như đã phân tích trên làm cơ sở cho việc áp dụng các hành vi tố tụng cũng như các biện pháp tư pháp trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án một cách chính xác, phù hợp, từ đó tránh được sự lạm quyền, hoặc áp dụng

các biện pháp tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án, bỏ lọt tội phạm, đồng thời bảo đảm quyền con người trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Ví dụ: người thực hiện tội phạm mà theo quy định của luật hình sự đó là tội ít nghiêm trọng … và người đó có nhân thân tốt, không có dấu hiệu bỏ trốn gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, thì cơ quan tiến hành tố tụng không cần áp dụng biện pháp ngăn chặn như bắt người để tạm giam theo quy định tại Điều 80 và Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự.

Trên đây, là những vấn đề cơ bản thuộc phạm vi nội dung bảo vệ các quyền con người thể hiện ở định nghĩa pháp lý của khái niệm tội phạm, và chế định phân loại tội phạm.

2.1.2. Bảo vệ các quyền con người bằng những quy phạm của chế định lỗi

Nghiên cứu nội dung bảo vệ các quyền con người bằng những quy phạm về tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam, không thể không nghiên cứu một số vấn đề cơ bản của chế định lỗi để làm rõ nội dung bảo vệ các quyền con người thể hiện ở chế định này.

Để thực hiện mục đích trên, cần phân tích, làm rõ một số nội dung chính, cũng như đặc điểm và nội hàm của chế định lỗi trong luật hình sự hiện hành, mà trước tiên là khái niệm "tính chất lỗi" hay còn gọi là "hình thức lỗi". Từ việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá tổng quát, đặt nó trong mối tương quan với các dấu hiệu khác của tội phạm, chúng ta có thể hiểu về khái niệm " hình thức lỗi " trong luật hình sự như sau: Là hình thức biểu hiện trạng thái, tâm lý, thái độ của người trong tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị luật hình sự cấm mà người đó thực hiện.

Như vậy, một hành vi được coi là thực hiện một cách có lỗi là hành vi phải hội tụ các điều kiện sau: Phải do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện; Phải đạt độ tuổi nhất định mà theo quy định của pháp luật hình sự,

Xem tất cả 108 trang.

Ngày đăng: 19/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí