Quan Điểm Bảo Tồn Di Sản Văn Hóa Lễ Hội Truyền Thống


cách hiểu mới về “sáng tạo văn hóa” và “tính chân xác” được ủng hộ, cho thấy sáng tạo văn hóa như một xu thế tất yếu và tính chân xác với tính tương đối của nó, tính khả biến của nó không phải là ràng buộc cản trở của sáng tạo văn hóa. Sáng tạo văn hóa cần được tiếp cận văn minh, phù hợp (theo khái niệm và hướng dẫn của UNESCO) và thể hiện sự tôn trọng đối với “tính chân xác”. Như vậy, tính chân xác là phải được trông coi và giữ gìn, còn tính sáng tạo là cần thiết để đáp ứng yêu cầu phát triển nhất định. Như vậy việc quản lý lễ hội truyền thống gắn với phát triển sản phẩm du lịch không trái ngược quan điểm về bảo tồn tính chân xác của di sản văn hóa mà đó chính là sự sáng tạo văn hóa để di sản được sống và tái tạo các giá trị.

3.1.3. Quan điểm bảo tồn di sản văn hóa lễ hội truyền thống

Tính chân xác là nội dung cơ bản trong quan điểm về bảo tồn di sản văn hóa với ba hướng tiếp cận: bảo tồn y nguyên, bảo tồn trên cơ sở kế thừa, bảo tồn-phát triển. Ba hướng tiếp cận này tưởng như không thể tồn tại cùng nhau, tức là đã bảo tồn y nguyên thì không được thay đổi gì cả; bảo tồn trên cơ sở kế thừa, trái lại, thừa nhận rằng lễ hội không phải là bất biến, lễ hội hoàn toàn có thể thay đổi; cấp tiến hơn cả bảo tồn trên cơ sở kế thừa, bảo tồn - phát triển cho rằng bảo tồn như thế nào thì phụ thuộc vào nhu cầu của cuộc sống hiện tại là chính hơn là quan tâm tới bảo tồn cái gì trong quá khứ.

Xét 3 quan điểm về bảo tồn trong nghiên cứu này và đặc biệt để áp dụng cho mô hình quản lý lễ hội truyền thống gắn với phát triển sản phẩm du lịch một cách thành công, LUẬN ÁN cho rằng, quản lý phải dựa trên cả 3 quan điểm về: bảo tồn y nguyên, bảo tồn trên cơ sở kế thừa và bảo tồn - phát triển. Ba quan điểm này không hề mâu thuẫn hay phủ định nhau mà bổ sung và hỗ trợ cho nhau trong từng sự kiện/ lễ hội. Cần áp dụng cả 3 quan điểm này trong mô hình quản lý lễ hội truyền thống gắn với phát triển sản phẩm du lịch. Tuy nhiên mức độ áp dụng cho mỗi lễ hội sẽ không giống nhau và cho mỗi thành phần của lễ hội cũng không giống nhau. Việc nghiêng về bảo tồn y nguyên, bảo tồn trên cơ sở kế thừa hay bảo tồn - phát triển phụ thuộc vào không gian và thời gian cụ thể. Nếu cực đoan cho rằng chỉ áp dung một phương thức bảo tồn sẽ làm cho việc quản lý trở thành cứng nhắc và không hiệu quả.


Thực chất ba quan điểm này vẫn nằm trong bản chất của lý thuyết quản lý đã nêu ở trên là: “Quản lý là trông coi và gìn giữ theo những yêu cầu nhất định.” [63, tr.66]. Trong đó, “trông coi” là nghiêng về bảo tồn y nguyên, “gìn giữ theo những yêu cầu nhất định” nghiêng về bảo tồn dựa trên cơ sở kế thừa và bảo tồn - phát triển.

Khi đưa ra mục tiêu quản lý lễ hội gắn với phát triển sản phẩm du lịch thì không thể chỉ có bảo tồn y nguyên mà sẽ phải có sự thay đổi theo hướng tích cực. Bởi vì nếu lễ hội không như một điểm đến du lịch sáng tạo thì khó trở thành một sản phẩm du lịch thu hút khách. Hiện nay, quan điểm bảo tồn - phát triển đang được giới thực hành cổ vũ như một phương cách hữu hiệu áp dụng quản lý cho một số lễ hội truyền thống đáp ứng các điều kiện gắn với phát triển sản phẩm du lịch. Điều này sẽ được nêu rõ hơn ở dưới.

3.1.4. Quản lý lễ hội truyền thống một cách khoa học

Quản lý một cách khoa học là thuật ngữ được “ông tổ” của lý thuyết quản lý, Taylor, đưa ra. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau với khái niệm này. Tuy nhiên, điểm mấu chốt của quản lý một cách khoa học là: thông qua người khác, mà người quản lý vẫn có thể điều khiển và quản lý công việc một cách tốt nhất và tốn chi phí thấp nhất. Quản lý lễ hội nói riêng và quản lý văn hóa nói chung đúng là một công việc quản lý gián tiếp. Người quản lý không thể trực tiếp xử lý mọi vấn đề, họ gián tiếp xử lý vấn đề và điều khiển nguồn nhân lực, đội ngũ của mình và kiếm soát để họ có thể đạt được mục tiêu đề ra. “Quản lý là hoàn thành công việc của mình thông qua người khác và biết được một cách chính xác họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”. Quản lý gián tiếp đòi hỏi mức độ quản lý có tính khoa học cao hơn hẳn quản lý trực tiếp. Người quản lý trực tiếp có thể nhìn thấy tận mắt, giám sát tận nơi, tuy khó nhưng ít nhất người quản lý trực tiếp có thể biết những gì đang diễn ra và xử lý ngay tức thì. Quản lý gián tiếp còn khó hơn nhiều. Nó đòi hỏi người quản lý có cái nhìn sâu xa, tinh tế, nhạy cảm, bao quát, toàn diện, chi tiết để làm thế nào công việc được thực hiện một cách có “hiệu quả nhất” và “rẻ nhất.”

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 228 trang tài liệu này.

Quản lý lễ hội một cách khoa học không thể không kể đến quản lý lễ hội cả ở tầm vĩ mô, trung mô và vi mô. Ba mức quản lý này đan quyện lại với nhau và tạo nên


Quản lý lễ hội truyền thống gắn với phát triển sản phẩm du lịch qua khảo sát lễ hội kiếp bạc Hải Dương và lễ hội tịch điền Hà Nam - 15

sức mạnh quản lý. Như Bùi Hoài Sơn [71; 72] đã nhận định rằng công việc quản lý lễ hội ở tầm vĩ mô và trung mô là của ngành văn hóa - thông tin trung ương và địa phương, tuy nhiên để công việc quản lý và cả tổ chức được tiến hành đồng bộ, những người làm công tác quản lý văn hóa nói chung, lễ hội nói riêng phải nhìn nhận thấy vai trò của người dân trong quá trình quản lý của mình. Nhu cầu của người dân địa phương, vốn là chủ thể gần như duy nhất của các lễ hội trước đây cũng như có vai trò quan trọng trong việc tổ chức lễ hội hiện nay, cần phải được tích hợp trong các mục đích quản lý và tổ chức lễ hội. Bên cạnh hoạt động quản lý của các cơ quan chức năng, tự quản cộng đồng là một biện pháp hữu hiệu khác trong việc quản lý lễ hội, đặc biệt là các lễ hội ở qui mô nhỏ như cấp làng chẳng hạn. Đỉnh cao nhất – hay cái đích vươn tới

– của mọi hành động quản lý là quản lý mà như không quản lý gì cả, và hệ thống tự vận hành, tự điều chỉnh một cách linh hoạt theo những thay đổi của cuộc sống.

Để quản lý lễ hội gắn với phát triển sản phẩm du lịch, quản lý một cách khoa học là yếu tố thiết yếu cho sự thành công. Bởi vì, bản chất của lễ hội là sự tham gia của rất nhiều người, không phải chỉ quản lý những người dân địa phương mà phải quản lý các lớp quản lý khác nhau. Nói cách khác đó là “quản lý” của “quản lý.” Để trở thành sản phẩm du lịch, các kỹ năng quản lý cần phải được chuyên nghiệp hóa, hoàn thiện và đạt tiêu chuẩn ở mức cao nhất. Không chỉ có phân tầng, phân cấp, theo cách “quản lý” của “quản lý,” quản lý một cách khoa học còn thúc đẩy sự hợp tác giữa các tầng, các lớp lên tới mức cao nhất. Bởi chính sự hợp tác cao nhất thì mới đem lại kết quả cao nhất. Mỗi một cá nhân đều có điểm mạnh riêng. Sự hợp tác chặt chẽ giữa các tầng lớp và các bên sẽ tận dụng tối đa tất cả sức mạnh của tất cả các bên và tạo nên sức mạnh tập thể. Đây là điều kiện tiên quyết để có thể quản lý lễ hội thành sản phẩm du lịch. Bởi vì sản phẩm du lịch chỉ có thể đạt được nếu có sức mạnh tập thể. Sản phẩm là để phục vụ số đông và để sản phẩm trở thành thương hiệu thì không thể thiếu được sự ủng hộ của tập thể. Quản lý một cách khoa học là điều kiện tiên quyết để lễ hội truyền thống có thể trở thành sản phẩm du lịch.

Trong quản lý một cách khoa học, cần chú ý rằng các văn bản về quản lý lễ hội phải “phù hợp với thực tiễn”. Mong muốn của những nhà quản lý và những người


soạn thảo văn bản thể hiện trên những văn bản được ban hành không phải lúc nào, khi nào cũng đạt được, không những thế, văn bản này có thể là nguyên nhân dẫn đến việc ban hành những văn bản tiếp theo để bổ sung.

Bên cạnh đó, quản lý và tổ chức lễ hội, về nguyên tắc, là một công việc phải luôn đi liền và phù hợp với nhau, tuy nhiên trên thực tế, việc ban hành các văn bản quản lý, hướng dẫn có thể theo một kiểu nhưng thực tế tổ chức, vì nhiều lý do khác nhau, lại diễn ra theo một chiều hướng khác, không trùng khớp với những hướng dẫn của các văn bản quản lý. Đánh giá một cách khách quan, chúng tôi cho rằng đây không chỉ đơn thuần là lý do kỹ thuật của khâu soạn thảo văn bản mà là lôgíc tất yếu của bất kỳ việc ban hành văn bản nào. Mọi văn bản không thể nào bao quát được tất cả diễn biến trong đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của mình vì một điều đơn giản rằng mọi hiện tượng xã hội rất đa dạng và luôn trong trạng thái thay đổi và phát triển. Dưới những cách tiếp cận khác nhau, chúng ta sẽ có những cách lý giải và quản lý khác nhau. Để các văn bản pháp quy thực sự có tác động tích cực đến việc tổ chức và quản lý lễ hội, các ngành, các cấp và các địa phương cần phải phối hợp một cách đồng bộ trong việc ban hành văn bản cũng như triển khai chúng trong thực tiễn. [71, tr.118]

Như vậy, các bước quản lý lễ hội một cách khoa học gắn với phát triển sản phẩm du lịch sẽ bao gồm: 1) tạo dựng và phát triển lễ hội; 2) marketing và quản trị lễ hội (lên kế hoạch và truyền thông để đạt được thành công của một sự kiện); 3) đảm bảo tài chính cho lễ hội (xem xét về mặt tài trợ và những nguồn tài chính khác, cung cấp những hướng dẫn trong việc lên dự trù kinh phí hay các cơ chế quản lý kiểm soát tài chính hiệu quả); 4) cung cấp chi tiết về điều phối lễ hội, giới thiệu về quản trị hậu cần, quản trị sân khấu và đánh giá.

Nếu quản lý một cách khoa học của Taylor (Taylor, 1927) được áp dụng ngay từ đầu và triệt để trong mỗi giai đoạn thì quản lý lễ hội gắn với phát triển sản phẩm du lịch sẽ khả thi.


3.1.5. Quản lý chuyên nghiệp lễ hội truyền thống

Quản lý chuyên nghiệp dựa trên phân cấp, phân quyền và tổ chức thực hiện. Sự phân cấp, phân quyền rõ ràng trong quản lý được đưa ra cả bởi Weber (1947) và Gulick (1937) là điều cần thiết cho quản lý chuyên nghiệp. Mỗi cấp sẽ có những quyền hạn và trách nhiệm riêng. Đồng thời, luật lệ phải được áp dụng một cách triệt để và nghiêm túc để đảm bảo chất lượng sản phẩm du lịch được đạt tới mức cao nhất và có thương hiệu thực sự, có ảnh hưởng tích cực tới người tiêu dùng. Một khâu quan trọng trong các bước quản lý được Gulick (1937) nhấn mạnh đó là “tổ chức thực hiện”. Tổ chức thực hiện là phần thực tiễn của quản lý, là bước triển khai những lý thuyết quản lý trong thực tiễn. Quản lý sẽ không có tính khả thi nếu tổ chức thực hiện không thành công.

Quản lý chuyên nghiệp dựa trên quản lý cứng (Theory X) và quản lý mềm (Theory Y). Khi áp dụng lý thuyết quản lý tới từng lĩnh vực cụ thể thì phải tính đến Theory X và Theory Y của McGregor (1960). Quản lý “cứng” (Theory X) và quản lý “mềm” (Theory Y) cần được áp dụng một cách linh hoạt, hợp lý và luôn có tính song hành. Nghiêng quá về lý thuyết nào sẽ đều không hiệu quả và có thể đem đến cả thất bại trước mắt và lâu dài. Quản lý “cứng” và quản lý “mềm” luôn là đôi bạn hợp tác song hành và gắn kết với nhau. Ngoài ra, như Bùi Hoài Sơn đã nhận định:

Bàn đến biện pháp quản lý lễ hội nhằm phát huy mặt đã làm được và hạn chế mặt chưa làm được của nó đối với xã hội, chúng ta cũng cần nhận thức được rằng có rất nhiều những khó khăn, bất cập không dễ giải quyết trong quá trình tổ chức và quản lý lễ hội, đặc biệt nếu chúng ta không tính đến các quan điểm lý thuyết khác. [71, tr.98]

Chính vì lẽ đó, để công tác quản lý lễ hội có hiệu quả hơn, ngành văn hóa - thông tin, theo quan điểm của luận án, cần nhìn nhận đối tượng quản lý của mình theo một cách tiếp cận được xem như mới của phương Tây, đó là quan điểm quản lý di sản. Quan điểm quản lý di sản quan tâm đến các lĩnh vực sau: 1) Mục đích quản lý lễ hội; 2) Về nguồn lực quản lý lễ hội; 3) Về tiêu chí lựa chọn lễ hội; 4) Về các sản phẩm thuyết minh cho di sản; và 5) Chiến lược bảo tồn. Quan điểm


quản lý di sản nhấn mạnh đến sự lựa chọn của xã hội hiện thời đối với lễ hội truyền thống; coi lễ hội truyền thống như một chức năng phục vụ phát triển kinh tế

- văn hóa - xã hội và chính trị. Nội dung cơ bản của quan điểm này liên quan đến nhu cầu của người dân tham dự lễ hội, coi đó là nguồn lực quản lý lễ hội. Trên quan điểm đó, quản lý lễ hội đồng nghĩa với việc định hướng các nhu cầu của người dân tham dự lễ hội. Quan điểm quản lý di sản cũng nhấn mạnh đến tính đa nghĩa và tính có thể thay đổi của lễ hội nói riêng, di sản nói chung. Từ một quan điểm linh hoạt như vậy, có thể đề xuất ra những biện pháp quản lý lễ hội phù hợp với bối cảnh xã hội hiện tại.

Trên cơ sở các quan điểm quản lý di sản, hoàn toàn có thể lý giải những vấn đề khó khăn đang đặt ra đối với công tác quản lý lễ hội truyền thống hiện nay như vấn đề mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa, mê tín dị đoan, tính chân xác của lễ hội truyền thống, vấn đề ngăn chặn các hủ tục lạc hậu phục hồi cùng với các lễ hội, vấn đề tổ chức các trò chơi, đặc biệt là các trò chơi mới trong lễ hội truyền thống… trong đó thống nhất tính linh hoạt trong việc giải đáp các vấn đề, tôn trọng nhu cầu của người dân, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã hội và văn hóa của mỗi địa phương, và chú ý tính đa mục đích của việc tổ chức lễ hội.

Quản lý dựa trên việc xem xét nhu cầu (needs) của các bên tham gia. Theo Maslow, cốt lõi của lý thuyết quản lý phải dựa trên sự đánh giá các cấp độ về nhu cầu của các bên tham gia. Nhu cầu được sắp xếp theo mức độ từ thấp tới cao, từ nhỏ tới lớn, từ cơ bản cho tới mức độ hoàn thiện bản thân. Để quản lý lễ hội gắn với phát triển sản phẩm du lịch, trước hết đánh giá nhu cầu của chủ thể và khách thể là yếu tố đầu tiên các nhà quản lý cần tính đến.

Chủ nhân của lễ hội là cộng đồng sinh sống tại nơi lễ hội diễn ra. Còn khách là những người tới thăm lễ hội. Là chủ nhà, người dân địa phương rất cần sự thông cảm và chia sẻ của khách đối với lễ hội. Để có được tiếng nói chung, hai bên cần hiểu nhu cầu của nhau là gì. Nhu cầu của cộng đồng cũng đi từ thấp lên cao từ việc chia sẻ về mặt tinh thần cho đến việc mong muốn khách sẽ mang lại lợi ích cho họ


về mặt kinh tế. Ngược lại khách có nhu cầu được thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tinh thần, giải trí. Chủ cần hiểu được nhu cầu đó và cố gắng đáp ứng cho khách.

Như vậy, nhà quản lý cần hiểu rằng nhu cầu của khách và chủ là đan xen và hòa quyện lẫn nhau. Nếu nhu cầu của một bên không được thỏa mãn thì khó có thể quản lý một cách thành công. Khi nhu cầu cơ bản được thỏa mãn thì mới có thể đáp ứng nhu cầu khác cao hơn.

3.2. Những vấn đề đặt ra từ góc độ thực tiễn

Từ việc khảo sát hai lễ hội Tịch Điền và Kiếp Bạc thì nghiên cứu sinh nhận ra rằng việc áp dụng các vấn đề lý thuyết vào thực tiễn có nhiều khó khăn. Thực tiễn quản lý hai lễ hội này nói riêng và các lễ hội truyền thống khác trong bối cảnh Việt Nam hiện nay đặt ra rất nhiều các vấn đề mà cần phải xem xét thấu đáo thì mới đưa ra được các giải pháp trên cơ sở áp dụng khung lý thuyết.

3.2.1. Những khó khăn để lễ hội Tịch Điền, lễ hội Kiếp Bạc có thể được quản lý thành một sản phẩm du lịch từ góc độ của nhà quản lý

Về cơ bản, Lễ hội Tịch Điền và Lễ hội Kiếp Bạc đã đạt được những thành công ở tầm quy mô của một lễ hội. Nhưng sự thành công đó mới chỉ dừng lại ở việc quản lý một lễ hội hay sự kiện văn hóa phổ biến thông thường, từ việc duy trì và phát triển số lượng người dân tham gia đông đảo, đảm bảo an ninh, an toàn, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc... Cả hai lễ hội đã đạt được những yêu cầu của cả phần lễ và phần hội. Tuy nhiên để trở thành một sản phẩm du lịch thì cả hai lễ hội còn thiếu rất nhiều và đặt ra những vấn đề cụ thể như sau:

a) Về quản lý nhà nước: Sự chỉ đạo dẫn dắt thiếu hệ thống, cập rập và vụn vặt nên khi thực hiện còn rất nhiều lỗ hổng trong các khâu tuyên truyền, quảng bá, chuẩn bị tài chính, hậu cần, nhân lực. Sự tham mưu, tư vấn của các bộ phận chức năng thiếu chủ động, tiến độ chậmvà yếu về chất lượng nên mục tiêu và yêu cầu đề ra trong kế hoạch chưa đạt được kết quả cao nhất. Sự hợp tác liên kết và phối hợp giữa các tổ chức, các ngành vẫn còn lỏng lẻo. Cả lễ hội Tịch Điền và Lễ hội Kiếp Bạc có quy hoạch chưa tối ưu. Các hoạt động lễ hội mới chỉ dừng ở việc đưa ra và cố gắng duy trì ở mức năm sao bằng hoặc tốt hơn năm trước ở những chỉ số cơ bản


như số lượng tham gia, thời gian tổ chức và những trải nghiệm đơn giản, lặp lại của khách tham dự. Thiếu sự đánh giá chuyên môn sâu sau mỗi kỳ lễ hội phục vụ mục tiêu phát triển lâu dài. Đây là một thực trạng phổ biến trong việc tổ chức các lễ hội truyền thống ở Việt Nam hiện nay.

b) Về sự tham gia và ý thức của người dân: Ý thức cộng đồng và ý thức trách nhiệm đối với các lễ hội được tổ chức của người dân còn thấp. Không ít người dân thờ ơ với lễ hội và không ý thức được rằng lễ hội trên quê hương mình là một phần sở hữu của mỗi cá nhân tại địa phương. Họ trở nên thờ ơ với nhũng gì đang diễn ra, thậm chí không quan tâm và cho đó là công việc của các nhà quản lý, của nhà nước. Thậm chí họ có muốn tham gia ý kiến trong quản lý, họ nghĩ rằng tiếng nói của họ không được để ý và không được coi trọng. Đây là một nhận thức sai lầm và cần thay đổi dù không thể thay đổi nhanh. Cũng vì mưu sinh trong cuộc sống hàng ngày mà người dân quan tâm tới kinh tế hơn là thẩm nhận các giá trị văn hóa. Họ chỉ thực sự để ý tới vấn đề nếu thấy lợi ích sát sườn đối với mình khi tham gia. Những việc chèo kéo bán hàng thiếu văn hóa đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh lễ hội. Để giải quyết những vấn đề đó không phải chỉ nói: “Không được làm như vậy”, “Phải xử lý ngay”, “Phạt”… Mọi việc sẽ vẫn không thể giải quyết tận gốc. Nguyên nhân là quản lý còn hời hợt, qua loa, thiếu chủ động.

Mặc dù là lễ hội mang bản sắc địa phương, nhưng những hình ảnh đặc biệt về địa phương chưa được thể hiện rõ trong lễ hội. Điều gì làm nên sự khác biệt của lễ hội Tịch Điền và Lễ hội Kiếp Bạc so với các lễ hội khác chưa được bộc lộ rõ ràng và có tính điểm nhấn. Nền văn hóa Việt Nam “tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc” khó có thể đạt được khi trong lễ hội chưa bộc lộ được những điểm đặc biệt và duy nhất chỉ địa phương mới có, hoặc địa phương chủ động tôn vinh.

c) Về đội ngũ cán bộ quản lý: Trong quản lý, trình độ chuyên môn của người quản lý đóng vai trò cốt lõi. Vậy mà trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người quản lý ở địa phương và thậm chí các cấp còn rất hạn chế, nếu không nói là yếu kém. Ngoài ra, trình độ chuyên môn lại không được chú trọng một cách thỏa đáng khiến cho cán bộ quản lý chưa phát huy mạnh nhất thế mạnh của mình và thiếu nhiệt tình,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 14/03/2023