riêng, quy định chế tài cho bên có hành vi vi phạm việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ của hợp đồng, thì được coi là một phần của nghĩa vụ bảo lãnh theo quy định của Điều 363 Bộ luật Dân sự. Ngoài ra, tất cả các khoản khác như án phí, chi phí kiện tụng... không được liệt kê tại Điều 363 Bộ luật Dân sự và không được các bên thỏa thuận trong hợp đồng bảo lãnh sẽ không nằm trong phạm vi nghĩa vụ được bảo lãnh.
2.6.3. Năng lực của các bên tham gia hợp đồng bảo lãnh
Là một hợp đồng dân sự, do vậy, bảo lãnh đòi hỏi ở các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng có đầy đủ các điều kiện về năng lực chủ thể theo quy định của Bộ luật Dân sự: phải là người đã thành niên; không bị hạn chế, bị mất năng lực hành vi. Tuy vậy, phải ghi nhận một số thực tế là có rất nhiều người không có, mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, nhưng họ có tài sản riêng và đủ lớn để có thể đứng ra bảo lãnh cho một nghĩa vụ dân sự nào đó. Vậy, họ có quyền thông qua người khác (người giám hộ) để xác lập hợp đồng bảo lãnh hay không?
Trường hợp khác xảy ra đối với người có tài sản vắng mặt hoặc người bị tuyên bố mất tích, bằng một quyết định của Tòa án, liệu người quản lý tài sản của người này có quyền giao kết hợp đồng bảo lãnh bằng các tài sản đặt dưới sự quản lý của họ?
Ngoài ra, đại diện của pháp nhân có quyền nhân danh pháp nhân để giao kết hợp đồng bảo lãnh trong những trường hợp và điều kiện nào? Nếu pháp nhân đó đồng thời là một tổ chức tín dụng, thì người đại diện, hoặc một người có chức vụ khác có quyền ký hợp đồng bảo lãnh cho một hợp đồng tín dụng với chính doanh nghiệp của mình không?
Trường hợp nữa là trong gia đình, chỉ có vợ hoặc chồng tham gia vào hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng đó có hợp pháp không; và nếu hợp pháp thì khối tài sản nào đứng đằng sau cam kết bảo lãnh loại này?
Dưới đây, chúng tôi sẽ lần lượt xem xét đến năng lực của những chủ thể đặc biệt. Như đã nói ở phần trên, hợp đồng bảo lãnh là loại hợp đồng trong đó người bảo lãnh chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ. Vì vậy, chúng tôi chỉ tập trung phân tích về năng lực của người bảo lãnh.
Như chúng ta đã biết, thực chất trong quan hệ bảo lãnh, mục tiêu chính của người nhận bảo lãnh là tài sản của người bảo lãnh chứ không phải cá nhân người bảo lãnh. Do vậy, khi tồn tại một khối tài sản độc lập có chủ sở hữu hợp pháp, thì quan hệ bảo lãnh về lý thuyết có thể được thiết lập. Tuy nhiên, do chủ sở hữu của các khối tài sản này không đủ năng lực để tham gia giao kết hợp đồng mà phải thông qua người quản lý tài sản.
Do quy định chưa rõ ràng của Điều 69 Bộ luật Dân sự, mà xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề người quản lý tài sản có được phép bảo lãnh nhân dân người có tài sản hay không? Nên hiểu và mở rộng theo hướng người quản lý tài sản có quyền này. Tuy nhiên, cần phải tuân theo một thủ tục chặt chẽ, đặc biệt phải kiểm tra mục đích của giao dịch có vì lợi ích của người có tài sản không. Tuy nhiên, trên thực tế loại giao dịch rất khó thẩm định, hoặc khó kiểm tra mục đích thực của giao dịch.
Đối với trường hợp quản lý tài sản của người vắng mặt hoặc mất tích pháp luật không cho phép người quản lý tài sản đưa các loại tài sản này vào tham gia các loại giao dịch, trừ một số giao dịch đặc biệt. Ví dụ: Bán ngay tài sản là hoa màu, sản phẩm khác có nguy cơ bị hỏng. Thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thanh toán nợ đến hạn... Khái niệm quản lý trong các trường hợp này cần phải hiểu là chiếm hữu, sử dụng hạn chế và định đoạt trong giới hạn rất hẹp theo quy định của pháp luật. Như vậy, có thể khẳng định ngay, người quản lý tài sản của một người vắng mặt hoặc mất tích không có quyền tham gia hợp đồng bảo lãnh nhân danh người vắng mặt, mất tích trên nền khối tài sản của anh ta.
Có thể bạn quan tâm!
- Quan Hệ Giữa Bên Bảo Lãnh Với Bên Nhận Bảo Lãnh
- Thời Điểm, Thời Hạn Thực Hiện Nghĩa Vụ Bảo Lãnh
- Sự Thỏa Thuận Của Các Bên Trong Hợp Đồng Bảo Lãnh
- Bảo lãnh trong quan hệ vay tiền ở các tổ chức tín dụng - 8
- Thực Tiễn Hoạt Động Bảo Lãnh Thực Hiện Nghĩa Vụ Trong Quan Hệ Vay Tiền Của Các Tổ Chức Tín Dụng
- Phương Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bảo Lãnh Trong Quan Hệ Vay Tiền Ở Các Tổ Chức Tín Dụng
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
Như chúng ta đều đã biết, pháp nhân có quyền bảo lãnh cho một nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên, pháp nhân là một khái niệm riêng biệt, hoạt động của pháp nhân đều phải thông qua người đại diện hợp pháp của pháp nhân.
Sẽ không có vấn đề gì nếu người đại diện theo pháp luật của pháp nhân (thường là giám đốc, tổng giám đốc hoặc chủ tịch hội đồng quản trị) trực tiếp ký kết hợp đồng bảo lãnh nhân danh pháp nhân để bảo lãnh. Vấn đề trở nên phức tạp khi người đại diện theo pháp luật không trực tiếp ký kết hợp đồng bảo lãnh mà ủy quyền cho người khác tham gia ký kết hợp đồng này. Trong hệ thống Ngân hàng của Việt Nam hiện nay, do đặc điểm của hoạt động kinh doanh tiền tệ. Ngân hàng nào cũng thành lập hệ thống chi nhánh, văn phòng đại diện tại các đơn vị hành chính các cấp. Tuy nhiên, chỉ có Ngân hàng Trung ương là có tư cách pháp nhân, còn lại chi nhánh, văn phòng đại diện ở các địa phương không có tư cách pháp nhân theo Điều 92 Bộ luật Dân sự. Văn phòng đại diện, chi nhánh không phải là pháp nhân. Người đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh thực hiện nhiệm vụ theo ủy quyền của pháp nhân trong phạm vi và thời hạn được ủy quyền. Với quy định này, có thể khẳng định giám đốc chi nhánh, văn phòng đại diện của Ngân hàng ở địa phương không có quyền ký hợp đồng bảo lãnh với tư cách là đại diện theo pháp luật của ngân hàng. Trong thực tế, các ngân hàng thương mại thường có giấy tờ ủy quyền riêng của Tổng Giám đốc để thực hiện việc bảo lãnh này. Về nguyên tắc, pháp nhân có thể ủy quyền cho bất cứ một cá nhân nào tham gia một hoặc một số công việc nhất định. Ngân hàng thương mại cũng có thể ủy quyền cho bất cứ ai ký kết hợp đồng bảo lãnh thay cho mình, nhưng thông thường là lãnh đạo các chi nhánh.
Trên nguyên tắc này, Quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo quyết định số 196/QĐ-NH14 ngày 16/9/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước theo Điều 15 và áp dụng cho các bảo lãnh không phải để vay vốn nước ngoài theo Điều 4, có quy định: Người có thẩm quyền ký văn bản bảo lãnh của Ngân hàng là Tổng Giám đốc (giám đốc) ngân hàng. Người này có thể ủy quyền cho Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc), Giám đốc chi nhánh trực thuộc mình ký bảo lãnh. Người được ủy quyền không được phép ủy quyền lại.
Nguyên tắc này cũng được áp dụng cho tất cả các pháp nhân khác. Pháp nhân có thể trực tiếp ký hợp đồng bảo lãnh thông qua người đại diện theo pháp luật, hoặc ủy quyền cho người khác tham gia ký kết hợp đồng bảo lãnh.
Như vậy là có hai loại người được phép đại diện cho pháp nhân để ký kết hợp đồng bảo lãnh, đó là đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. Mặc dù đều là đại diện cho pháp nhân, song quyền hạn của hai người này là không giống nhau. Quyền hạn của đại diện theo pháp luật được quy định trong luật và cụ thể hóa ở Điều lệ của doanh nghiệp và thông thường quyền hạn của người này là bao quát. Còn quyền hạn của người đại diện theo ủy quyền do hai bên thỏa thuận, thông thường là một vụ việc với nội dung cụ thể, có giá trị trong một khoảng thời gian nhất định (một năm, hai năm...) hoặc giới hạn mức giá trị của nghĩa vụ bảo lãnh (mức bảo lãnh tối đa là một tỷ, hai tỷ đồng...).
Trường hợp pháp nhân bảo lãnh là một tổ chức tín dụng, thì mức bảo lãnh đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn ủy thác của Chính phủ, của các tổ chức, cá nhân hoặc trường hợp khách hàng vay là tổ chức tín dụng khác. Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của một tổ chức tín dụng không vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định theo Điều 79, Luật Các tổ chức tín dụng ngày 12/12/1997.
Với mục đích bảo vệ lợi ích của pháp nhân, đặc biệt là pháp nhân kinh doanh tiền tệ, khoản 3 Điều 77 Luật Các tổ chức tín dụng quy định (trừ tổ chức tín dụng hợp tác) không được chấp nhận bảo lãnh của những người sau đây để làm cơ sở cho việc cấp tín dụng đối với khách hàng.
- Thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Tổng Giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ chức tín dụng;
- Người thẩm định, xét duyệt cho vay;
- Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Tổng Giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc).
Đối với bảo lãnh của vợ hoặc chồng, như đã nói ở trên, mục đích của người nhận bảo lãnh là khối tài sản của người bảo lãnh. Tuy nhiên, khi quan hệ vợ chồng đang tồn tại thì khối lượng tài sản của gia đình là tài sản chung hợp nhất của cả hai vợ chồng theo Điều 27 Luật Hôn nhân Gia đình năm 2000. Về nguyên tắc, cá nhân vợ hoặc chồng đều có quyền đứng ra bảo đảm cho một nghĩa vụ nào đó. Hành vi bảo lãnh cho một nghĩa vụ của mỗi người không phải là hành vi định đoạt tài sản bởi, bản chất của bảo lãnh là đối nhân. Do vậy, hành vi này không vi phạm Điều 28 Luật Hôn nhân Gia đình năm 2000. Vấn đề còn lại là xác định khối tài sản của người bảo lãnh. Trường hợp một trong hai người tham gia hợp đồng bảo lãnh và được sự đồng ý của người còn lại mặc dù người này không tham gia ký kết hợp đồng, thì khối tài sản đảm bảo cho nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm phần tài sản riêng của người bảo lãnh và toàn bộ tài sản chung của hai vợ chồng. Ngược lại, nếu người vợ hoặc chồng ký kết hợp đồng bảo lãnh mà không được sự đồng ý của người còn lại thì khối tài sản bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh chỉ bao gồm tài sản riêng của người bảo lãnh và phần tài sản chung mà người này có trong khối tài sản chung hợp nhất của hai vợ chồng. Tuy nhiên, việc yêu cầu chia tài sản chung hợp nhất của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đang tồn tại là việc làm tương đối phức tạp và mất nhiều thời gian. Do vậy, trong điều kiện mỗi cá nhân đều không có khối tài sản riêng đủ lớn để đảm bảo cho nghĩa vụ bảo lãnh, thì giải pháp tốt nhất mà người nhận bảo lãnh nên lựa chọn là yêu cầu cả vợ, chồng cùng tham gia vào hợp đồng bảo lãnh với tư cách là đồng bảo lãnh.
2.6.4. Hợp đồng bảo lãnh vô hiệu
Hợp đồng bảo lãnh là một loại giao dịch dân sự, vì vậy hợp đồng này sẽ bị vô hiệu theo các quy định chung của pháp luật dân sự về giao dịch dân sự vô hiệu. Dưới đây, chúng tôi sẽ phân tích các trường hợp giao dịch dân sự
vô hiệu, ngoài ra sẽ xem xét các trường hợp đặc biệt dẫn đến hợp đồng bảo lãnh vô hiệu.
Người tham gia hợp đồng bảo lãnh không có năng lực hành vi dân sự, khi hợp đồng bảo lãnh do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật hợp đồng này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện.
Người tham gia xác lập hợp đồng không đúng thẩm quyền, chủ thể tham gia hợp đồng bảo lãnh phải là người từ đủ 18 tuổi và không bị hạn chế, mất năng lực hành vi. Nếu một người chưa đủ 18 tuổi, hoặc đã đủ 18 tuổi nhưng bị mất năng lực hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi theo quy định tại Điều 22, 23 Bộ luật Dân sự tham gia giao kết hợp đồng bảo lãnh để bảo lãnh cho một nghĩa vụ dân sự, thì hợp đồng đó đương nhiên bị vô hiệu (vô hiệu tuyệt đối). Đối với pháp nhân tham gia bảo lãnh, người giao kết hợp đồng phải là đại diện hợp pháp của pháp nhân (có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền) theo quy định tại Điều 91 Bộ luật Dân sự. Vậy, nếu một người không có quyền đại diện cho pháp nhân xác lập hợp đồng bảo lãnh, về nguyên tắc hợp đồng đó sẽ bị vô hiệu. Tuy nhiên, nếu sau khi đã xác lập hợp đồng và pháp nhân được đại diện đã biết và đồng ý với việc giao kết hợp đồng đó thì hợp đồng bảo lãnh không bị vô hiệu theo Điều 145 Bộ luật Dân sự.
Một trường hợp nữa cũng có thể phát sinh từ hợp đồng do người đại diện của pháp nhân ký kết, hợp đồng vượt qua phạm vi thẩm quyền đại diện. Hợp đồng này chỉ bị vô hiệu một phần, tức là phần vượt quá phạm vi thẩm quyền đại diện. Nếu pháp nhân được đại diện biết và chấp nhận cả phần vượt quá thì hợp đồng bảo lãnh sẽ không bị vô hiệu theo Điều 146 Bộ luật Dân sự.
Hợp đồng bảo lãnh giả tạo, theo quy định của pháp luật khi hợp đồng bảo lãnh được các bên thỏa thuận ký kết nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ
với người thứ ba, với xã hội hoặc nhằm che giấu một hành vi nào đó, đặc biệt là hành vi bất hợp pháp thì hợp đồng đó phải bị tuyên bố vô hiệu theo Điều 129 Bộ luật Dân sự. Tính chất vô hiệu thực hiện theo quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự khi các bên xác lập giao dịch một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này tức Bộ luật dân sự.
Nhầm lẫn, đối với hợp đồng bảo lãnh thì khi một trong các bên giao kết hợp đồng bị nhầm lẫn về nội dung giao kết hợp đồng, mà sự nhầm lẫn này là kết quả trực tiếp từ lỗi vô ý của phía bên kia thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu thay đổi nội dung giao kết hoặc yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó là vô hiệu theo Điều 131 Bộ luật Dân sự.
Lừa dối, khi xem xét cần phải xác định xem xét kỹ yếu tố lừa dối để tuyên bố hợp đồng bảo lãnh vô hiệu. Các vấn đề cần phải xem xét là: thứ nhất, có sự cố ý đưa thông tin sai lệch hoặc bỏ qua sự thật của một bên; thứ hai, người nghe phải không biết đến sự sai lệch và đã tin vào sự sai lệch đó mà tham gia hợp đồng; thứ ba, phải có thiệt hại xảy ra. Tuy nhiên, trên thực tế khi xem xét phải kết hợp các yếu tố một cách hợp lý, bởi vì mọi yếu tố này đều có sự liên quan chặt chẽ với nhau và phải phù hợp với tính chất khách quan của vụ án.
Ngoài ra, lừa dối trong hợp đồng bảo lãnh có thể còn là hành vi cố ý của người thứ ba nhằm làm cho bên bảo lãnh hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của hợp đồng nên đã xác lập hợp đồng đó. Người thứ ba trong quan hệ này có thể là người được bảo lãnh hoặc là người thứ ba bất kỳ. Cũng cần phải phân biệt rõ, nếu người thứ ba có liên quan đến một trong các bên tham gia hợp đồng và hành động bì mục đích của phía bên này, thì hợp đồng đó phải được tuyên bố vô hiệu. Ngược lại, nếu người thứ ba không liên quan đến các bên và họ hành động không nhằm mục đích gì, hoặc vì một mục đích khác thì hợp đồng này không thể bị tuyên bố vô hiệu.
Hợp đồng bảo lãnh vi phạm điều kiện về hình thức, đối với hợp đồng bảo lãnh thì hình thức của hợp đồng phải là bằng văn bản. Trong nhiều trường hợp, hình thức bằng văn bản của hợp đồng bảo lãnh chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải điều kiện đủ, để hợp đồng bảo lãnh có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, Điều 362 Bộ luật Dân sự đã quy định: Trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản bảo lãnh phải được công chứng hoặc chứng thực. Như vậy, nếu hợp đồng bảo lãnh không đảm bảo các điều kiện nói trên thì sẽ bị tuyên bố vô hiệu.
2.7. Xử lý tài sản của bên bảo lãnh
Trong những năm trước đây, Nghị định số 178 đã trao cho ngân hàng những quyền nhất định để chủ động xử lý tài sản thu hồi nợ mà không cần có sự đồng ý của bên bảo đảm. Chẳng hạn như ngân hàng có quyền trực tiếp bán tài sản bảo đảm cho người mua hoặc ủy quyền việc bán đấu giá tài sản cho Trung tâm bán đấu giá tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản hoặc tự quyết định giá bán tài sản nếu không thỏa thuận được với bên bảo đảm... Sở dĩ Nghị định số 178 có những quy định thiên về hướng bảo vệ quyền, lợi ích của ngân hàng là vì vào thời điểm đó, hệ thống pháp luật về bảo đảm chưa đầy đủ và đồng bộ (các văn bản pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm chưa được ban hành hoặc các cơ quan liên quan chưa chuẩn bị xong các điều kiện để thực hiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm...), vốn cho vay của ngân hàng trên thị trường chủ yếu là vốn của các ngân hàng thương mại nhà nước (chiếm hơn 70% thị phần), các biện pháp quản lý nhà nước khác (như kiểm toán, thuế, thanh tra, kiểm tra...) chưa thực sự kiểm soát được hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế mới chuyển đổi sang cơ chế thị trường và một loạt các vụ án kinh tế bị khởi tố, đưa ra xét xử liên quan đến hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại như vụ án Tamexco, vụ án Công ty Hưng Thịnh tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, vụ án EPCO - Minh Phụng... Do vậy, Nghị định số 178 đã có những quy định trên để ổn định thị trường