Số Lượng Đơn Theo Pct Do Người Sử Dụng Pct Ở Các Nước Đang Phát Triển Được Lựa Chọn Nộp


Hệ thống pháp luật hoàn thiện về sở hữu trí tuệ ở các nước phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội. Số đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế ngày càng tăng. Đặc biệt là ở các nước châu Âu, Nhật Bản và Hoa Kỳ.

Ví dụ: Ở Nhật Bản phải mất 95 năm để cấp 1 triệu bằng độc quyền sáng chế đầu tiên, trong khi chỉ mất 15 năm để cấp 1 triệu bằng sáng chế tiếp theo, (đến tháng 8 năm 2002 hiệp ước hợp tác về bằng độc quyền sáng chế do WIPO quản lý) có 117 quốc gia thành viên.

WIPO nhận hơn 103.000 đơn theo Hiệp ước hợp tác về bằng độc quyền sáng chế (PCT) trong năm 2001 tăng 14,3% so với năm 2000. Trong đó liên tục đứng đầu danh sách người sử dụng lớn nhất của hệ thống này là các ngành công nghiệp và sáng chế đến từ các nước như: Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (38,5% tổng số đơn trong năm 2001), Đức 13,1%, Nhật 11,4%, Anh 6%, Pháp 6%. Việc sử dụng Hiệp ước hợp tác về bằng độc quyền sáng chế đang tăng lên tại các nước đang phát triển.

Bảng 1: Số lượng đơn theo PCT do người sử dụng PCT ở các nước đang phát triển được lựa chọn nộp

Nước

Năm 2000

Năm 2001

Tăng trưởng (%)

Braxin

161

193

20

Trung Quốc

579

1670

188

n Độ

156

316

103

Mêhicô

71

107

51

Hàn Quốc

1514

2318

53

Singapo

225

271

20

Nam Phi

386

418

8

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với việc phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam - 4

Nguồn: Sách sở hữu trí tuệ, tr.36.


Tãm l¹i: Để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có hiệu quả trước hết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, phải xây dựng các đạo luật riêng biệt điều chỉnh từng đối tượng sở hữu trí tuệ. Trên thực tế không ít người đã có những hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trên nhiều lĩnh vực khác nhau, đưa lại những hậu quả nặng nề về kinh tế - xã hội, đặc biệt là nạn làm giả và chiếm đoạt diễn ra trên tất cả các lĩnh vực.

Bảng 2: Tỷ lệ làm giả, chiếm đoạt diễn ra trên thị trường thống nhất châu Âu 1999


Lĩnh vực liên quan

Tỉ lệ làm giả/chiếm đoạt

Xử lý dữ liệu

39%

Nghe nhìn

16%

Dệt

10-16%

Âm nhạc

10%

Phụ tùng xe cộ

5-10%

Thể thao giải trí

5-7%

Nguồn:http://europa.eu.int/comm/internal/market/cn/intprop/intprop/cout ert/htm#2.

Như vậy tỷ lệ chiếm đoạt lĩnh vực xử lý dữ liệu, đặc biệt là ứng dụng phần mềm thương mại dùng cho máy tính cá nhân trên toàn cầu đã đạt tới mức kinh ngạc (39%). Tuy nhiên tỷ lệ này đã từng là 49% vào năm 1994, giảm 10% trong vòng 5 năm. Người ta ước tính rằng trong năm 1999 ngành công nghiệp phần mềm đã bị mất 12 tỷ USD (trong khi ngân sách liên hợp quốc trong niên khoá tài chính 2 năm 2000 - 2001 là 2,54 tỷ USD) [85, tr.103].

Ngành công nghiệp ô tô ước tính nạn phụ tùng giả làm họ bị mất 12 tỷ USD mỗi năm, phần lớn trong số đó sảy ra ở châu Âu [71, tr.16].

Ngành dược phẩm đã bị tổn thất doanh thu bán hàng trực tiếp trong năm 1999 là 12 tỷ USD, âm nhạc là 4,1 tỷ USD (báo cáo về nạn chiếm đoạt của IFPI


- trang 2; (http://www.bsa.org), phần mềm máy tính 59 tỷ USD trong 5 năm tính đến năm 1999 do nạn làm giả và chiếm đoạt. (Nguồn: http://www.interpol). Bởi vậy, đi đôi với việc xây dựng hệ thống pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ phải có những giải pháp thực thi nghiêm ngặt. Có một câu châm ngôn: “Một quyền mà không kèm theo một chế tài thì không thể là quyền”. Nếu việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ thất bại thì toàn bộ hệ thống luật quốc gia và các điều ước quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trở thành vô hiệu.

1.2.2. Các hình thức thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ

Nói chung, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có thể được thực hiện dưới 4 hình thức cơ bản sau:

“1. Thực thi hành chính, chẳng hạn việc cơ quan hải quan tịch thu hàng xâm phạm.

2. Thực thi hình sự, trong đó bên đưa ra một vụ án hình sự chống người xâm phạm là nhà nước, thường thông qua cơ quan hải quan.

3. Thực thi dân sự, trong đó người có quyền hoặc người nào đó chiếm giữ quyền hợp pháp, chẳng hạn bên được chuyển nhượng hoặc bên nhận li-xăng, tiến hành vụ kiện pháp lý theo luật định, bằng cách nộp một đơn kiện dân sự chống lại một người xâm phạm tại tòa án và có thể muốn tìm kiếm 1 lệnh của tòa án.

4. Thực thi bằng công nghệ, trong đó nhà sản xuất sản phẩm và cung cấp dịch vụ sử dụng những phương tiện công nghệ để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ chống lại sự xâm phạm (Ví dụ: mã hóa tác phẩm dạng số được bảo hộ quyền tác giả)” [85, tr.314-317].

Đối với quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện tại một cơ quan hoặc một bộ phận hành chính của chính phủ tách biệt với tòa án. Theo Hiệp định TRIPS, hải


quan có vai trò quan trọng hơn trong thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới.

Ví dụ: Trong năm 1999, 25 triệu đơn vị hàng giả đã bị thu giữ tại biên giới EU, đến năm 2001 con số đó đã tăng lên đến 95 triệu. Để chống lại mối đe dọa ngày càng tăng của nạn hàng giả và chiếm đoạt, EU đã có kế hoạch ban hành văn bản pháp luật hoàn chỉnh hơn, bắt đầu bằng một kế hoạch hành động phối hợp liên quan đến hàng loạt cơ quan và ban ngành của chính phủ, tiếp đó là đề xuất một pháp lệnh mới (nguồn: http:// www.proquest.umi.com).

Tại Trung Quốc năm 1998 các cơ quan hành chính đã xử lý 28.952 vụ việc vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và tịch thu 400 triệu vật phẩm xâm phạm. Trong tháng 1/2000, các cơ quan chức năng hải quan đặc khu hành chính SAR Hồng Kông đã khám phá một vụ sản xuất đĩa Video, hai dây chuyền sản xuất đã bị đóng cửa và 400 nghìn đĩa bất hợp pháp đã bị tịch thu. Trong năm 1999, các cơ quan có thẩm quyền SAR Hồng Kông đã tịch thu 16 triệu đĩa quang bất hợp pháp và bắt giữ 2.701 người về tội chiếm đoạt với quy mô lớn. Các cơ quan hải quan SAR Hồng Kông mang những cái tên đầy sáng tạo như “sét đánh” và “hủy diệt” cũng đã thành công trong việc tịch thu hàng trăm ngàn CD và thiết bị sản xuất bất hợp pháp (nguồn: Tài liệu của WIPO; WIPO/IPR/KUV/00/3 tr. 2 - 4).

Thực thi hình sự đã được coi là phương thức và thủ tục hiệu quả nhất trong việc đấu tranh chống xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Luật hình sự với mức phạt nặng hơn dân sự sẽ đủ sức răn đe đối với những tội phạm về quyền sở hữu trí tuệ. Cùng với mức xử phạt hành chính, phạt tiền và các hình phạt khác thì hình phạt cao nhất là tù giam đã được áp dụng.

Tại Malaixia, liên minh phần mềm thương mại (BSA) đang hỗ trợ chính phủ đấu tranh với nạn chiếm đoạt phần mềm ở quy mô lớn. Trong giai đoạn từ


tháng 4 đến tháng 6 năm 1999 có 4.629 cuộc vây ráp. Theo đạo luật quyền tác giả ở Malaixia, người xâm phạm không chỉ phải đối mặt với khoản tiền phạt nặng mà cả phạt tù giam đến 5 năm (nguồn: http://www.malaysia.cnet.com).

Tại Trung Quốc hơn 1.000 thanh tra viên đã tỏa ra khắp cả nước vào tháng 12 năm 2000 để tìm kiếm phụ tùng ô tô giả. Họ đã vây ráp 248 điểm bán lẻ và phát hiện trên 30 nghìn phụ tùng ôtô giả, kể cả những bộ phận tiềm ẩn mối nguy hiểm như phụ tùng cho trục và phanh.

Tháng 12 năm 2000 các nhân viên của Uỷ ban độc lập chống tham nhũng của SAR Hồng Kông đã thu giữ 500 máy dập bất hợp pháp dùng để làm CD. Các máy có giá trị 400 triệu USD này đã được sử dụng bất hợp pháp để sản xuất CD ghi phim, âm nhạc, phần mềm máy tính và trò chơi video (nguồn: http://proquest.umi.com).

Tại Singapo, trong năm 2000 những nỗ lực phối hợp của chính phủ với cảnh sát đã dẫn tới 1.389 cuộc vây ráp hoạt động bất hợp pháp, 1.455 người đã bị bắt giữ và 1.559.840 vật phẩm bất hợp pháp bị thu giữ và đưa ra khỏi thị trường. Số người bị bắt này gồm 180 thành viên của 7 tổ chức tội phạm khác nhau.(nguồn: Cảnh sát Singapo, kho phim và ấn phẩm, Cục Hải quan và Thuế vụ 01/12/2001).

Cảnh sát Niudeli đã vây ráp một cửa hàng nhỏ và thu giữ lượng CD âm nhạc và phần mềm máy tính giả trị giá lớn hơn 1 triệu USD, chủ cửa hàng phải đối mặt với án giam lên tới 3 năm. (nguồn: IP.Asia - tháng 2 năm 2000 tr.20).

Thực thi dân sự cũng là một công cụ có hiệu quả trong việc chống lại những kẻ làm hàng giả. Trong thời gian gần đây tố tụng dân sự những vụ xâm phạm sở hữu trí tuệ đã tăng lên đáng kể với khoản tiền bồi thường lớn được quyết định trong nhiều vụ án.


“Ví dụ: Những phán quyết lớn nhất về bằng độc quyền sáng chế ở tòa phúc thẩm - Tòa án khu vực Liên bang (Hoa Kỳ).

Polaroicl kiện Eastman Kodask 837 triệu USD.

Smith International kiện Hughes Tools 204 triệu USD. Pfizer, Inc kiện International Reetifier 55 triệu USD. Shiney,Inc kiện Bentley Laboratories 44 triệu USD. (nguồn: WIPO, tài liệu WIPO/IP/MM/00/7 - Tr. 6)”.

Tuy nhiên việc thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở các nước rất khác nhau về độ phức tạp, thời gian và chi phí.

Ví dụ: Ở Australia, mỗi năm có khoảng 20 đến 40 vụ xâm phạm bằng độc quyền sáng chế bị khởi kiện, nhưng chỉ có khoảng 10% trong số này thực sự đi tới giai đoạn xét sử mà thời điểm diễn ra điển hình là 1 đến 2 năm sau khi nộp đơn kiện. Chi phí đi kèm theo với tranh tụng về bằng độc quyền sáng chế có thể từ 53.410 đến 267.050 USD. Trong đó bao gồm cả phí luật sư (nguồn: http:// www.cnn.com/business/currencies).

Tại Đức, vụ kiện xâm phạm bằng độc quyền sáng chế tốn kém hơn vì phí luật sư do nhà nước điều chỉnh, luật sư không được phép thu phí thấp hơn mức tối thiểu đã quy định. Tại đây toàn bộ một vụ kiện xâm phạm kéo dài trong khoảng thời gian 12 đến 18 tháng.

Tại Mexico có vụ việc xâm phạm bằng độc quyền sáng chế điển hình kéo dài 3 năm và chi phí thường vào khoảng 50.000 đến 100.000 USD (nguồn: http:// www.ladas.com).

Các ví dụ trên cho thấy mức độ phức tạp và tốn kém của các vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Hiện nay để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có hiệu quả nhiều nước đã đề ra “phương án thay thế trong giải quyết tranh chấp (ADR)” đặc


biệt là phương thức trọng tài. Phương thức này ít tốn kém, nhanh chóng và cần ít nguồn lực hơn so với các vụ kiện dân sự. Thủ tục ADR có thể là bắt buộc hoặc tùy chọn và kết quả theo thủ tục này có tính ràng buộc điển hình là trong thủ tục trọng tài, hoặc không có tính ràng buộc như thủ tục hòa giải. Với những quy tắc về hoạt động trọng tài, quy tắc hoạt động trọng tài nhanh và quy tắc hoà giải, với các điều khoản hợp đồng mẫu phù hợp với các đặc trưng cụ thể trong tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ và với các cơ sở dữ liệu lớn có chuyên môn từ nhiều nước của mình, trung tâm trọng tài và hòa giải WIPO đang đóng vai trò có hiệu quả về phương diện này. ADR là phương pháp thực thi quyền sở hữu trí tuệ có hiệu quả đang được nhiều nước áp dụng.

Thực thi bằng công nghệ “Cái mà người này có thể tạo ra thì người khác có thể sao chép”, điều này không chỉ đúng với sản phẩm mà còn đúng với biện pháp bảo hộ bằng phương tiện công nghệ. Biện pháp công nghệ phải được thiết kế để chuyển gánh nặng rủi ro sang người làm hàng giả, sao cho những người làm hàng giả sẽ bị bắt, phạt tiền nặng và cả ngồi tù. Quan điểm này thấm sâu vào việc thiết kế và triển khai những biện pháp công nghệ [71, tr.32].

Về cơ bản có 4 loại biện pháp công nghệ khác nhau mà doanh nghiệp đang nỗ lực thực hiện để bảo vệ sản phẩm của mình và thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Đó là công nghệ quang học, công nghệ sinh học, công nghệ hóa học và công nghệ điện tử. Dưới đây mô tả tóm tắt về biện pháp điện tử:

“Biện pháp điện tử bao gồm:

1. Dải từ dính - như những dải dùng để bảo vệ thẻ tín dụng và thẻ ngân hàng, lưu trữ khối lượng thông tin lớn dưới dạng mã hóa, có thể đọc được bằng máy quét thích hợp.

2. Thẻ thông minh - một loại thẻ bằng nhựa có gắn một chip máy tính, lưu trữ và cung cấp, nếu việc truy cập là hợp lệ những khối lượng thông tin lớn.


Công nghệ này đắt tiền nhưng có hiệu quả và chắc chắn sẽ dẫn đến một con đường thực thi trong tương lai.

3. Mã điện tử - biến đổi tần số tín hiệu điện tử, khiến tín hiệu trở nên không thể đọc được bằng những phương tiện thông thường như máy tính, đầu CD, VCD và DVD. Chỉ có người sản xuất hàng hóa và người mua hợp pháp là người chủ sở hữu hợp pháp chìa khóa cần thiết để giải mã đó” [85, tr.34].

Ngoài ra để thực thi quyền sở hữu trí tuệ có hiệu quả một số nước còn áp dụng các biện pháp kiểm soát biên giới. Các biện pháp kiểm soát biên giới chỉ liên quan đến hai loại hàng hóa là hàng mang nhãn hiệu giả mạo gọi là “hàng giả”, hàng hóa xâm phạm bản quyền gọi là “hàng ăn cắp bản quyền” chứ không liên quan đến hàng hóa vi phạm nói chung. Hoạt động kiểm soát của cơ quan hải quan là sự tiếp xúc đầu tiên với hàng hóa nhập khẩu. Tỷ lệ hàng ăn cắp bản quyền, hàng giả được nhập khẩu và sử dụng tại chỗ ở các nước là rất khác nhau. Bởi vậy việc thu giữ hàng hóa xâm phạm tại biên giới trước khi chúng có thể gây nhầm lẫn hoặc gây thiệt hại hơn trong các kênh phân phối trong nước là rất quan trọng, ở một số nước việc kiểm soát nhập khẩu rất đơn giản và rất được chú trọng.

Ví dụ: Nhật Bản là một nước công nghiệp có ít cảng nhập, Nhật Bản đã phát triển hệ thống hải quan đặc biệt để chống hàng giả. Chủ thể quyền có thể liệt kê các quyền sở hữu trí tuệ của họ vào hệ thống điện tử để hải quan kiểm soát và hải quan sẽ kiểm tra tất cả các loại hàng hóa nhập khẩu mang tính chất thương mại đối chiếu với quyền đã đăng ký. Hệ thống này tỏ ra rất thành công, đặc biệt là đối với nhãn hiệu hàng hóa.

1.2.3. Kinh nghiệm về phát huy vai trò của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội

Theo kinh nghiệm của các nước để phát huy vai trò của sở hữu trí tuệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trước hết phải nâng cao nhận thức của xã hội về

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/09/2023