chấp xảy ra sẽ tốn nhiều thời gian, chi phí và gây mất lòng tin cho người dân.
2.3.2. Thực tiễn trong việc quản lý và sử dụng
Đối với việc quản lý và sử dụng NHTT hiện nay ở nước ta cũng đã góp phần mang lại lợi ích đáng kể đối với các thành viên của sử dụng NHTT nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung. Để đạt được những lợi ích trên có một vai trò rất lớn của tổ chức là chủ sở hữu cùng với các thành viên trong việc quản lý và sử dụng NHTT.
Tổ chức đóng vai trò là chủ sở hữu đã thực hiện quản lý, giám sát, kiểm tra việc tuân thủ các quy định về sử dụng NHTT của các hội viên. Đảm bảo cho hoạt động của các hội viên được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, nâng cao giá trị kinh tế của NHTT trên thị trường.
Các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu NHTT, chính là những tổ chức/cá nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, cung cấp dịch vụ sử dụng NHTT. Họ đã thực hiện tốt được vai trò của mình trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm, dịch vụ đúng như quy định trong quản lý và sử dụng, đưa sản phẩm ra với công chúng. Ví dụ điển hình cho vai trò của các thành viên sử dụng NHTT để tạo nên giá trị riêng cho sản phẩm như đối với NHTT “Gỗ Đồng Ky.”. Trong điều kiện khó khăn do thị trường đầu ra bị thu hẹp… các thành viên trong Hội đang cùng nhau chung tay xây dựng và phát triển nhãn hiệu tập thể “Gỗ Đồng Kỵ”, góp phần thúc đẩy làng nghề phát triển bền vững. Hiện nay, phường Đồng Kỵ có hơn 150 doanh nghiệp và hơn 90% số hộ sản xuất, kinh doanh gỗ mỹ nghệ. Trong đó, nhiều doanh nghiệp lớn có thương hiệu được người tiêu dùng biết đến và ghi nhận chất lượng sản phẩm như: Gỗ mỹ nghệ Hưng Long, Thành Đạt, Đông Dương, Hoàng Hải, Việt Hà… Sản phẩm của các doanh nghiệp này đã có mặt ở khắp các tỉnh, thành phố trên cả nước và vươn ra nhiều thị trường quốc tế [17].
Tuy nhiên, còn rất nhiều vấn đề trong quản lý và sử dụng NHTT được
đặt ra hiện nay.
Thứ nhất: Chủ thể quản lý
Đối với việc quản lý NHTT của tổ chức là chủ sở hữu, mặc dù quyền của tổ chức đã được thể hiện trên quy chế nhưng thực tế cho thấy nhiều khi việc quản lý chỉ là hình thức. Điều này do nhiều nguyên nhân khác nhau:
Do khả năng quản lý của tổ chức: Thực tế nhiều khi tổ chức quản lý NHTT không hiểu biết về NHTT, không có kiến thức về quản lý hay kiến thức về SHTT…;
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể theo luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam - 8
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể theo luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam - 9
- Thực Tiễn Trong Việc Đăng Ký Bảo Hộ Nhtt
- Một Số Kiến Nghị Cụ Thể Đối Với Việc Hoàn Thiện Pháp Luật
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể theo luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam - 13
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể theo luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam - 14
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
Do việc tuân thủ quy định quy chế của các thành viên: Mặc dù quy chế quản lý và sử dụng NHTT là văn bản có tính chất bắt buộc tuân thủ đối với các thành viên, tuy nhiên, vì lợi ích các nhân hoặc vì các mục đích khác mà các thành viên không tuân thủ đúng quy chế quản lý và sử dụng NHTT;
Do các biện pháp chế tài áp dụng nếu không thực hiện đúng theo quy định chưa hiệu quả: Quy chế quản lý và sử dụng NHTT quy định cụ thể các chế tài áp dụng đối với những hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định được nêu ra trong quy chế, nhưng việc áp dụng chế tài này trên thực tế lại không hiệu quả. Nguyên nhân chủ yếu là do cơ chế áp dụng luật nói chung và luật SHTT của nước ta còn kém hiệu quả.
Những điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc tổ chức quản lý sử dụng NHTT của chủ sở hữu. Chúng ta xem xét đối với trường hợp của Thái Nguyên và Ninh Thuận như sau:
Nhãn hiệu tập thể chè Thái Nguyên đã được cục SHTT cấp văn bằng bảo hộ năm 2006 nhưng sau hai năm triển khai còn nhiều tồn tại và hạn chế, chưa nâng cao được danh tiếng của sản phẩm mang nhãn hiệu tập thể trên thị trường do việc quản lý nhãn hiệu tập thể gặp nhiều khó khăn cả về mặt pháp lý và tổ chức thực hiện [25].
Ngoài ra việc xác định tổ chức đứng tên chủ thể quản lý và để đăng ký
nhãn hiệu tập thể đòi hỏi tổ chức đó phải đủ mạnh, có uy tín và phải nắm vững việc sản xuất kinh doanh sản phẩm mà mình làm ra, có kiến thức về thị trường, có kiến thức tổ chức, quản lý cũng như phải có hiểu biết về SHTT và giá trị của tài sản trí tuệ. Thực tế, không phải tổ chức nào cũng đạt được các yêu cầu nêu trên. Như ví dụ tại tỉnh Ninh Thuận:
“Tại Ninh Thuận việc xây dựng nhãn hiệu tập thể cũng còn một số vướng mắc. Vướng mắc đầu tiên trong việc xác lập quyền là tìm ra tổ chức nào đứng ra làm chủ đơn và quản lý nhãn hiệu tập thể. Do đặc sản của địa phương mang nhãn hiệu tập thể hầu hết là nông sản như rau an toàn An Hải, tỏi Phan Rang, nước mắm Cà Ná, mắm Đông Hải hoặc sản phẩm thủ công truyền thống như thổ cẩm Mỹ Nghiệp, Chung Mỹ, gốm Bàu Trúc … được sản xuất và kinh doanh bởi các hộ cá thể, quy mô nhỏ nên việc xác định tổ chức nào sẽ đứng ra đảm nhận trách nhiệm quản lý việc sử dụng nhãn hiệu tập thể sau khi văn bằng bảo hộ được cấp là việc làm hết sức khó khăn. Cho đến nay, mặc dù Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã có công văn chỉ đạo số 2917/UBND-KT ngày 3/8/2009 về việc xây dựng một số nhãn hiệu tập thể đặc sản của địa phương nhưng còn nhiều khó khăn, trong đó khó khăn thứ nhất là việc xác định tổ chức đứng tên chủ thể quản lý và để đăng ký nhãn hiệu tập thể. Tổ chức đó phải đủ mạnh, uy tín và phải nắm vững việc sản xuất kinh doanh sản phẩm, am hiểu thị trường, có kiến thức tổ chức, quản lý cũng như phải có các cán bộ có hiểu biết tốt về SHTT và giá trị của tài sản trí tuệ” [15].
Thứ hai: Cơ chế quản lý
Cơ chế cấp, thu hồi quyền sử dụng NHTT chưa được thiết lập và triển khai thực hiện thống nhất; phương thức kiểm soát việc sử dụng; cơ chế trao đổi, thu hồi quyền sử dụng NHTT hoạt động chưa hiệu quả. Mặc dù có đầy đủ các quy chế như quy chế sử dụng NHTT, quy chế cấp tem nhãn…nhưng việc
thực hiện theo quy chế lại không hiệu quả.
Việc giải quyết tranh chấp, những yêu cầu pháp lý trong quản lý, kinh doanh, chuyển quyền sử dụng…cũng chưa được quan tâm đúng mức.
Ngoài ra, trong quản lý và sử dụng NHTT hiện nay còn một vấn đề tồn tại đó là việc cấp phép của chủ sở hữu NHTT đối với thành viên sử dụng. Thông thường, việc cấp phép sử dụng này là đối với thành viên của tổ chức là chủ sở hữu, đáp ứng các điều kiện trong quy chế như có sản xuất kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mang NHTT, tuân thủ quá trình sản xuất, kinh doanh...Tuy nhiên, có những chủ thể sản xuất, kinh doanh sản phẩm dịch vụ mang NHTT nhưng không ở trong địa phương mang NHTT và không là thành viên của tổ chức là chủ sở hữu NHTT thì không được sử dụng NHTT. Điều này đã hạn chế không nhỏ sự phát triển đồng bộ của sản phẩm, dịch vụ mang NHTT và kìm hãm sự phát triển kinh tế của chủ thể sản xuất kinh doanh sản phẩm, dịch vụ đó.
Một thực tế nữa trong công tác quản lý NHTT được nêu ra tại Hội nghị toàn quốc về SHTT năm 2010 tại Lạng Sơn đó là chưa có gì đảm bảo là phần lớn các chủ thể đăng ký đều là tổ chức đại diện cho quyền lợi của những người sản xuất/kinh doanh/người cung cấp dịch vụ truyền thống trong khu vực địa lý, điều này đồng thời còn có thể làm giảm uy tín/danh tiếng của sản phẩm/dịch vụ do không có cơ chế chung để kiểm soát chất lượng sản phẩm. Bởi vì Cục SHTT khi tiếp nhận đơn chỉ có thể kiểm tra các tài liệu cần thiết được nộp theo đơn có đầy đủ hay không và thẩm định xem NHTT có đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ không. Cục không có chức năng đánh giá tổ chức đăng ký có là tổ chức đại diện cho quyền lợi của người sản xuất/kinh doanh/người cung cấp dịch vụ truyền thống trong khu vực địa lý hay không. Đây là một thực tế cần xem xét khi xây dựng các quy định liên quan đến NHTT.
Thứ ba: Việc xác định quyền và nghĩa vụ của các thành viên tham gia
sử dụng NHTT
Trước khi tham gia làm thành viên của tổ chức là chủ sở hữu NHTT, các thành viên thường sản xuất, kinh doanh sản phẩm chủ yếu là mang tính tự phát, chưa trở thành hiệp hội. Nên khi việc tham gia trong một tổ chức thống nhất sẽ dẫn đến quyền lợi của các thành viên không giống nhau. Chính vì vậy, các thành viên thường khó tìm được tiếng nói chung gây khó khăn rất lớn cho việc xây dựng, quản lý và sử dụng nhãn hiệu tập thể. Hệ quả của việc kinh doanh, sản xuất tự phát là lợi ích cá nhân luôn đặt lên trên lợi ích của tập thể. Vậy vấn đề đặt ra là làm sao có thể cân bằng được lợi ích của các thành viên trong tổ chức để tạo nên một sự phát triển chung.
Thứ tư: Việc xác định chất lượng, đặc thù các sản phẩm mang nhãn hiệu tập thể.
Sản phẩm mang nhãn hiệu tập thể chủ yếu được xác định chất lượng bằng màu sắc, hình dáng, mùi vị, … và dựa vào cảm quan là chính nên rất khó định lượng để đề ra tiêu chuẩn chung cho sản phẩm đó. Đây cũng là một nguyên nhân gây ra khó khăn trong quản lý và sử dụng NHTT. Vì dựa vào cảm quan là chính khi xác định tiêu chuẩn cho sản phẩm nên khi có tranh chấp xảy ra sẽ không có căn cứ pháp lý hay cơ sở xác đáng để giải quyết. Chúng ta xem xét ví dụ đối với trường hợp NHTT ”Bưởi tôm vàng” của Đan Phượng. Quy chế kiểm soát chất lượng của sản phẩm có ghi sản phẩm phải có màu vàng, mọng nước, có vị ngọt...Tuy nhiên, tất cả các tiêu chí nêu trên đều dựa vào cảm quan để đánh giá, phụ thuộc rất nhiều vào ý chí chủ quan của từng người. Vì thế rất khó để tạo ra một tiêu chí chung để đánh giá. Việc này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể là do trình độ khoa học kỹ thuật của chúng ta còn hạn chế và cũng có thể do nguồn kinh phí đầu tư chưa nhiều. Dẫn đến hệ quả là khó khăn trong việc xác định chất lượng đặc thù của sản phẩm.
Thứ năm: Quy mô của sản phẩm mang NHTT
Do các đặc sản địa phương tại Việt Nam chỉ được trồng và sản xuất ở quy mô nhỏ lẻ, nguồn giống cây trồng, vật nuôi thiếu sự kiểm soát và định hướng, quy trình sản xuất còn dựa chủ yếu vào kinh nghiệm, tập quán; công nghệ thu hoạch, chế biến, bảo quản sau thu hoạch còn thủ công thô sơ; ứng dụng khoa học trong sản xuất và chế biến nông sản chưa nhiều dẫn đến chất lượng thiếu đồng nhất, thiếu ổn định. Điều này sẽ ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến uy tín của sản phẩm, dẫn đến thương hiệu đặc sản của địa phương khó bền vững.
Điển hình cho vấn đề này là việc phát triển nâng cao giá trị của cây chè ở Thái Nguyên. Những hạn chế mà tỉnh Thái Nguyên gặp phải đó là: "cơ cấu giống chè mới so với tổng diện tích còn thấp chưa quy hoạch đồng bộ giữa phát triển vùng nguyên liệu với sản xuất, chế biến, sản xuất chè đa phần có quy mô nhỏ lẻ, manh mún, việc phát triển nhãn hiệu tập thể "Chè Thái Nguyên" chưa được chú trọng”.
Thứ sáu: Đầu ra của sản phẩm
Hiện nay, nhiều sản phẩm đặc sản đã được đầu tư bài bản, từ việc chọn giống, canh tác, thu hoạch đến việc đăng ký NHTT nhưng vẫn khó tìm được đầu ra cho sản phẩm. Nếu sản phẩm không tìm được đầu ra nó sẽ ảnh hưởng đến quá trình sản xuất. Đối với sản phẩm, dịch vụ đăng ký NHTT hiện nay, tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm khó khăn là vì công tác quảng bá sản phẩm chưa được chú trọng, giá thành sản phẩm cao, thị hiếu tiêu dùng của người dân là ưa hàng ngoại...Đây là một trong những khó khăn không nhỏ đối với việc phát triển NHTT hiện nay.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ NHTT
3.1. Phương hướng
Phương hướng sẽ là vấn đề luôn luôn được đặt ra khi xem xét sự phát triển hay hoàn thiện của bất cứ một ngành nói nào chung hay của ngành luật nói riêng. Phương hướng sẽ giúp cho chúng ta có những đường lối và bước đi đúng đắn. Đối với quy định về NHTT nói riêng và Luật SHTT nói chung, cần tìm ra phương hướng để hoàn thiện và phát triển hiện nay là cần thiết hơn bao giờ hết. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như đã chỉ ra trong chương 2: có thể là do quy định của pháp luật chưa phù hợp với thực tế trong nước và xu hướng chung của thế giới và cũng có thể do quy định hiện tại chưa cân bằng được lợi ích của các chủ thể…Cho dù là nguyên nhân nào đi nữa thì chúng ta cần có phương hướng để hoàn thiện pháp luật bảo hộ NHTT nói riêng và Luật SHTT nói chung theo hướng “thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, quy phạm hóa nội dung Nghị quyết số 71/2006/QH11 về việc phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO của Việt Nam; bảo vệ lợi ích quốc gia; bảo đảm nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa người sáng tạo, nhà sử dụng và công chúng hưởng thụ; kế thừa các giá trị pháp luật đã được thực tiễn kiểm nghiệm, tiếp thu các chuẩn mực quốc tế; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, đầy đủ và hiệu quả của hệ thống pháp luật về SHTT” [11]. Phương hướng hoàn thiện pháp luật bảo hộ NHTT được thể hiện trên các phương diện như sau:
Thứ nhất: Cần tạo ra sự phù hợp hơn của pháp luật về bảo hộ NHTT với các chuẩn mực quốc tế hay các cam kết của Việt Nam khi tham gia Tổ chức thương mại thế giới WTO.
Chúng ta không thể phát triển hay hoàn thiện các quy định của luật một cách đơn lẻ mà không đặt trong xu thế chung hay đặt trong sự đối chiếu, so sánh với các quy định của nước khác và trên thế giới. Chỉ khi được đối chiếu so sánh thì chúng ta mới thấy được những điểm đạt được và những điểm còn hạn chế cần khắc phục. Đây cũng là xu thế chung của sự phát triển. Quy định về bảo hộ NHTT nói riêng và các quy định của Luật SHTT nói chung cũng không nằm ngoài xu thế đó. Sự phù hợp này sẽ có tác dụng rút ngắn khoảng cách hội nhập của các cá nhân, tổ chức Việt Nam đối với thế giới. Mặt khác nó cũng khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài yên tâm đầu tư vào Việt Nam với cơ chế pháp luật rõ ràng, mang tính quốc tế.
Chúng ta xem xét một ví dụ sau: Các cam kết của các nước khi tham gia WTO đều dựa trên nguyên tắc đối xử quốc gia, theo đó các doanh nghiệp trong và ngoài nước được đối xử bình đẳng trong các lĩnh vực nói chung và lĩnh vực pháp lý nói riêng. “Điều 16.2 của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) của WTO quy định chỉ cho phép thành viên của WTO duy trì các quy định về giới hạn mở cửa thị trường nếu các giới hạn đó đã được quy định cụ thể tại Biểu cam kết về dịch vụ của chính thành viên đó. Tương tự, điều 17 của GATS yêu cầu tất cả các thành viên WTO phải dành cho các dịch vụ đã được quy định tại Biểu cam kết nguyên tắc Đối xử Quốc gia mà theo đó doanh nghiệp trong và ngoài nước được đối xử bình đẳng”. Với quy định này nếu Việt Nam không có những quy định dựa trên nguyên tắc đối xử quốc gia như trên tức là không phù hợp với pháp luật quốc tế sẽ không tạo được môi trường pháp lý thuận lợi cho việc đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam và kết quả là kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Hơn nữa, sự phù hợp này sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh buộc các doanh nghiệp trong nước phải phát triển.
Bên cạnh việc quy định sự phù hợp giữa pháp luật trong nước với