Một Số Kiến Nghị Cụ Thể Đối Với Việc Hoàn Thiện Pháp Luật

chuẩn mực hay cam kết quốc tế, chúng ta cần đảm bảo cho các cam kết trong các quy định để không xảy ra các tranh chấp trong việc thi hành luật.

Đã từng có những ý kiến khác nhau xung quanh việc coi dấu hiệu không có nguồn gốc ngôn ngữ Latinh là dấu hiệu không có khả năng phân biệt. Vậy quy định trên có phù hợp với chuẩn mực quốc tế hay không?

Luật SHTT Việt Nam có một số điểm quy định hạn chế đăng ký đối với các dấu hiệu là các từ ngữ không thuộc ngôn ngữ Latin như chữ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc...là các dấu hiệu không có khả năng phân biệt. Điều này có thể lý giải nguyên dân là do người Việt Nam không thể nhận biết, không thể ghi nhớ được các ngôn ngữ này vì thế nó sẽ không đảm bảo được chức năng phân biệt của NHTT. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định của Hiệp định TRIPS. Điều 15.1&2 Hiệp định TRIPS quy định: “Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình hoạ và tổ hợp các mầu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu. Trường hợp bản thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ tương ứng, các Thành viên có thể quy định rằng khả năng được đăng ký phụ thuộc vào tính phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng. Các Thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký là các dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được”. Hiệp định quy định rõ rằng bất cứ dấu hiệu nào đảm bảo tiêu chí có khả năng phân biệt thì đều có thể sử dụng đăng ký làm nhãn hiệu.

Với tính chất là những quy định chung nhất đối với các nước thành viên khi tham gia Hiệp định nên các quy định của Hiệp định sẽ bao quát nhiều trường hợp khác nhau cho các thành viên lựa chọn sao cho phù hợp

với điều kiện của từng nước thành viên mà không mang tính chất bắt buộc đối với các thành viên.

Việt Nam quy định các dấu hiệu là các ngôn ngữ không có nguồn gốc Latinh là ngôn ngữ không thông dụng và không có khả năng đăng ký làm nhãn hiệu (trong trường hợp nếu dấu hiệu đó không được kết hợp với các yếu tố khác) là phù hợp với chuẩn mực quốc tế, cụ thể ở đây là quy định Hiệp định TRIPS: “Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình hoạ và tổ hợp các mầu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu”. Tuy nhiên, một trường hợp ngoại lệ trong quy định của pháp luật Việt Nam đối với các dấu hiệu không có nguồn gốc Latinh mà vẫn được chấp nhận làm NHTT đó là dấu hiệu đó đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu ở Việt Nam. Tức là một dấu hiệu là các ngôn ngữ không có nguồn gốc Latinh vẫn được đăng ký bảo hộ làm NHTT nếu như chủ sở hữu chứng minh được rằng dấu hiệu đó đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu. Tuy nhiên, thực tế không phải nhiều trường hợp chứng minh được ngoại lệ này.

Thực tế hiện nay cho thấy phần lớn các nước trong đó có cả Việt Nam đều học tập quy định của Quy chế của Ủy Ban EC số 1898/2006 ngày 14/2/2006 quy định chi tiết việc thi hành Quy chế của Hội đồng về bảo hộ chỉ dẫn địa lý và chỉ dẫn nguồn gốc của nông sản thực phẩm để từ đó thấy được vai trò của các tổ chức của những người sản xuất, xây dựng hệ thống kiểm soát và bảo vệ danh tiếng...Đây cũng là một trong những yếu tố để tạo nên sự phù hợp trong những quy định về bảo hộ NHTT của Việt Nam so với thế giới.

Thứ hai: Phù hợp với thực tế Việt Nam

Xây dựng quy định pháp luật bảo hộ NHTT không chỉ đòi hỏi phù hợp với pháp luật quốc tế mà cần phải phù hợp với thực tế Việt Nam.

Quy định của pháp luật phù hợp với chuẩn mực quốc tế chỉ một trong những yếu tố khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Điều đặc biệt quan trọng và cần thiết hơn nữa là các quy định này phải phù hợp với thực tế Việt Nam. Chỉ khi phù hợp với thực tế của đất nước thì mới tạo được những yếu tố cần thiết để quy định thực thi và phát huy hiệu quả. Thực tế, các Điều ước quốc tế hay các Hiệp định song phương và đa phương đều có những điều khoản quy định về việc tùy thuộc vào điều kiện của mỗi nước mà các nước có thể xây dựng quy phạm pháp luật cho phù hợp. Ví dụ Công ước Paris có quy định về việc đăng ký nhãn hiệu tại phần nội dung của nhãn hiệu như sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

“Công ước Paris không quy định các điều kiện nộp đơn và đăng ký nhãn hiệu mà dành việc này cho luật quốc gia của các nước thành viên. Một khi nhãn hiệu được đăng ký tại một nước thành viên, đăng ký đó sẽ độc lập với đăng ký có thể có tại bất cứ nước thành viên nào khác, kể cả nước xuất xứ. Do đó, nếu đăng ký nhãn hiệu bị mất hiệu lực tại một nước thành viên thì cũng sẽ không ảnh hưởng đến hiệu lực của đăng ký nhãn hiệu đó tại các nước thành viên khác”.

Điều này có nghĩa Công ước không ấn định cụ thể cho các nước thành viên về bảo hộ nhãn hiệu phải qua thủ tục đăng ký hay dựa trên cơ sở sử dụng…mà việc này dành cho pháp luật của từng nước. Mỗi nước có quy định riêng phù hợp với thực tế của nước mình.

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể theo luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam - 12

Đối với Việt Nam, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo hộ NHTT phải phù hợp với thực tế đất nước càng cần được quan tâm hơn bao giờ hết. Các đặc điểm riêng của Việt Nam đòi hỏi phải có quy định pháp luật phù hợp được thể hiện trên các khía cạnh như sau:

Nước ta là một nước nông nghiệp, các đối tượng khi đăng ký NHTT thường được gắn với nông sản hay các đặc sản truyền thống (chiếm phần lớn số lượng đơn đăng ký tại Cục SHTT). Do đó, hoàn thiện pháp luật về bảo hộ

NHTT cần chú ý đến thực tế này và quy định đưa ra cần khai thác hết được các sản phẩm, dịch vụ đó, tạo điều kiện để mở rộng ra các sản phẩm hay dịch vụ khác nữa.

Một thực tế nữa của nước ta cần quan tâm khi hoàn thiện pháp luật về bảo hộ NHTT đó là chủ sở hữu NHTT có thể tồn tại cả hình thức, trong đó có hình thức Hợp tác xã hay Tổ hợp tác...phần lớn các nước trên thế giới không còn tồn tại hình thức này. Vì thế, việc hoàn thiện các quy định về pháp luật cần chú ý đến các đặc điểm thực tế của Việt Nam, từ đó đưa ra các quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu NHTT nói chung và đối với Hợp tác xã và Tổ hợp tác nói riêng sao cho phù hợp.

Thứ ba: Cần có những quy định riêng về bảo hộ NHTT và quy định này cần dựa trên kết quả nghiên cứu về mặt khoa học.

Ngoài khái niệm về NHTT được nêu trong phần giải thích từ ngữ, Luật SHTT của nước ta không có phần quy định riêng về việc bảo hộ NHTT, quy định của đối tượng này thường được hiểu theo nhãn hiệu thông thường. Điều này gây khó khăn không nhỏ trong việc áp dụng và thực thi pháp luật. Bởi lẽ NHTT và nhãn hiệu thông thường có rất nhiều điểm khác nhau chẳng hạn như về chủ thể về bản chất và về việc quản lý, sử dụng…Do đó, cần xây dựng những mô hình mẫu về bảo hộ NHTT, như là xây dựng Quy chế mẫu quản lý NHTT. Ở đây cần có những quy định riêng về chủ sở hữu, điều kiện bảo hộ, điều kiện sử dụng…để tạo một khuôn mẫu chung cho việc đăng ký và sử dụng.

Cộng đồng chung Châu Âu đã rất thành công trong việc xây dựng Quy chế bảo hộ NHTT, các quy định này của Châu Âu đã được rất nhiều nước học hỏi và áp dụng. Đặc biệt là quy chế 516/2009 hướng dẫn quy định của Hội đồng về đăng ký các sản phẩm là nông sản hay đặc sản truyền thống.

Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về bảo hộ NHTT phải dựa trên kết quả nghiên cứu về mặt khoa học với mục đích là các quy định đưa ra phù

hợp và áp dụng được trên thực tế. Tại cuộc hội thảo quốc tế về Chỉ dẫn địa lý và Tên gọi xuất xứ địa lý năm 2005 diễn ra tại Paris đề cập đến vai trò của nghiên cứu khoa học trong việc xây dựng thể chế: “Một trong những chủ đề được thảo luận và trao đổi là những thành công trong nghiên cứu đã góp phần thúc đẩy sự phát triển về mặt thể chế chính sách của nhà nước về mặt Chỉ dẫn địa lý và Tên gọi xuất xứ địa lý.Vấn đề đặt ra là cần phải làm rõ vai trò giữa hoạt động nghiên cứu và phát triển. Sự phát triển của các đối tượng nói trên sẽ diễn ra dựa trên kết quả đã được chứng minh về mặt khoa học. Thành tựu trong phát triển của hai đối tượng ở các nước Châu Âu như Italia, Thụy Sỹ, Tây Ban Nha…đạt được là kết quả khoa học đã trở thành cơ sở để tiến hành xây dựng và củng cố hệ thống thể chế chính sách”. Những vấn đề được đặt ra tại cuộc hội thảo ở Paris là đúng đắn đã được thực tế khẳng định và kiểm chứng.

Thứ tư: Hoàn thiện pháp luật bảo hộ NHTT cần chú ý và cân bằng lợi ích của các chủ thể như chủ sở hữu và thành viên sử dụng.

NHTT do một tổ chức làm chủ sở hữu và có các thành viên sử dụng nên cần phải có những quy định cân bằng lợi ích của các chủ thể. Hiện nay, quy định của pháp luật bảo hộ NHTT chưa đảm bảo sự cân bằng lợi ích giữa các chủ thể. Mỗi thành viên sử dụng thường đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích tập thể vì thế rất khó để đạt được mục đích chung đề ra khi tạo dựng NHTT. Hiện nay mặc dù quy chế sử dụng NHTT có nêu quyền và nghĩa vụ cụ thể của chủ sở hữu và thành viên sử dụng trong Quy chế quản lý và sử dụng của NHTT, nhưng thực tế quy chế này chỉ mang tính hình thức, không đảm bảo được lợi ích của các thành viên.

Thứ năm: Hoàn thiện pháp luật bảo hộ NHTT cần có sự tham gia của Nhà nước, bộ ngành liên quan và của người dân.

Sự kết hợp của các chủ thể nêu trên tạo nên sự phát triển đồng bộ bởi

lẽ mỗi chủ thể có một chức năng khác nhau. Người dân trong quá trình sử dụng sẽ thấy được những điểm đạt được và những điểm hạn chế của pháp luật về bảo hộ NHTT, từ đó nêu ra ý kiến để các cơ quan nhà nước tổng hợp làm cơ sở xây dựng hoặc sửa đổi sao cho phù hợp. Không chỉ các quy định của pháp luật mà tất cả các ngành đều cần có sự phối hợp của người dân và cơ quan nhà nước.

3.2. Một số kiến nghị cụ thể đối với việc hoàn thiện pháp luật

3.2.1. Hoàn thiện các quy định về sử dụng dấu hiệu làm NHTT

Thực tế Việt Nam hiện nay chỉ chấp nhận những dấu hiệu nhìn thấy được, tức là dấu hiệu được nhận biết bằng thị giác làm NHTT và loại trừ các dấu hiệu được nhận biết bằng khứu giác hay thính giác. Tuy nhiên, thực tế Luật chỉ quy định “NHTT là dấu hiệu dùng để phân biệt…”, chỉ quy định là dấu hiệu dùng để phân biệt sẽ rất dễ khiến cho người dân hiểu rằng dấu hiệu này bao gồm cả dấu hiệu thông dụng (nhận biết bằng thị giác) và dấu hiệu không thông dụng (nhận biết bằng thính giác hay khứu giác). Điều này tạo nên khó khăn không nhỏ trong việc hiểu và áp dụng pháp luật. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật SHTT năm 2009 đã khắc phục một số điểm hạn chế của Luật SHTT năm 2005, tuy nhiên vấn đề về dấu hiệu được sử dụng làm NHTT này lại không được đề cập đến trong phần sửa đổi.

Trên thế giới hiện nay có rất nhiều các nước sử dụng dấu hiệu không thông dụng làm nhãn hiệu. Ví dụ “tại Mỹ đã có đến 30 nhãn hiệu được đăng ký là nhãn hiệu âm thanh. Tiêu biểu cho nhãn hiệu thuộc dạng âm thanh là tiếng sư tử gầm của hãng phim MGM (Metro-Goldwin-Mayer)” [37]. Điều này đã mang lại lợi ích cho mỗi cá nhân khi đăng ký nhãn hiệu cho các đối tượng như mùi vị, âm thanh riêng của mình. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì các đối tượng này ngày càng một gia tăng.

Việt Nam đã ra nhập tổ chức thương mại thế giới, vì vậy Việt Nam

cũng cần sửa đổi bổ sung quy định liên quan đến dấu hiệu được sử dụng làm nhãn hiệu nói chung và NHTT nói riêng để không chỉ dừng lại là dấu hiệu nhìn thấy được mà bao gồm trong đó cả dấu hiệu không nhìn thấy được. Như vậy mới hội nhập được với nền kinh tế thế giới, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài và góp phần phát triển kinh tế đất nước. Đảm bảo sự công bằng về lợi ích của các chủ thể là chủ sở hữu các ngôn ngữ mà Việt Nam coi là không thông dụng và đảm bảo cả lợi ích của người tiêu dùng Việt Nam. Theo ý kiến Ths Vũ Thị Hải Yến trên tạp chí luật học tháng 3/2003 có nêu “Trong thời đại ngày nay, các loại hàng hóa, dịch vụ ngày càng phong phú, đa dạng, các nhà sản xuất luôn luôn tìm kiếm những nhãn hiệu mới lạ, độc đáo, hấp dẫn cho sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình để tạo ấn tượng đến công chúng. Với xu thế toàn cầu như hiện nay, việc công nhận và bảo hộ hàng hóa tại nhiều quốc gia khác nhau ngày càng phổ biến. Vì vậy, sẽ là khiếm khuyết nếu pháp luật của chúng ta không bảo hộ cho những dạng nhãn hiệu mới (nhãn hiệu mùi vị, âm thanh) đã được nhiều nước chấp nhận bảo hộ” [31]. Nhưng để các dấu hiệu được sử dụng làm NHTT bao gồm cả dấu hiệu không thông dụng đòi hỏi có sự kết hợp của nhiều yếu tố như sự thay đổi của kỹ thuật lập pháp, có cơ chế pháp lý rõ ràng, nâng cao trình độ thẩm định của thẩm định viên…Sự tổng hòa của các yếu tố nêu trên mới có thể tạo ra được những căn cứ pháp lý vững chắc để tạo ra những thay đổi trong quy định của Luật theo hướng phù hợp hơn với pháp luật thế giới.

Ngoài ra, đối với các NHTT là các ngôn ngữ không thông dụng thì thay bằng việc từ chối nhãn hiệu đó vì không có khả năng phân biệt thì nên chấp nhận cho việc đăng ký dấu hiệu đó dưới dạng nhãn hiệu hình. Nên sửa đổi điểm a, khoản 2 Điều 74 như sau:

“Nhãn hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt nếu nhãn hiệu đó là dấu hiệu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Hình và hình học đơn giản, chữ cái, chữ số, chữ thuộc ngôn ngữ không thông dụng (trừ trường hợp chữ thuộc ngôn ngữ không thông dụng này được đăng ký dưới dạng nhãn hiệu hình)…”

Hơn nữa, các dấu hiệu được sử dụng làm NHTT được nộp theo các đơn đăng ký thường là các dấu hiệu được gắn liền với địa danh (mặc dù Luật không đòi hỏi bắt buộc các dấu hiệu này phải gắn với địa danh) nhưng thực tế các đơn đăng ký NHTT thường gắn với địa danh cụ thể và người dân thường hiểu mặc nhiên rằng đăng ký NHTT phải gắn liền với một hoặc nhiều sản phẩm, dịch vụ truyền thống với một địa danh cụ thể. Điều này đã hạn chế rất nhiều việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ khác khi đăng ký NHTT. Theo thống kê của Cục SHTT tại cuộc Hội nghị toàn quốc về SHTT diễn ra tại Lạng Sơn năm 2010 thì sản phẩm truyền thống rất nhiều, có 933 sản phẩm đặc thù, gắn liền với 21 địa danh. Mặc dù Luật không có quy định rằng các NHTT phải được đăng ký cho một sản phẩm hay dịch vụ truyền thống nào đó nhưng thực tế phần lớn các đơn đăng ký NHTT đều cho sản phẩm hay dịch vụ truyền thống. Có thực tế này không phải do luật không có những quy định cụ thể, rõ ràng về các dấu hiệu được sử dụng làm NHTT mà có thể do ảnh hưởng của Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp (gọi tắt là Chương trình 68) giai đoạn 2005-2010 được phê duyệt theo Quyết định số 68/2005/QĐ-TTg ngày 4/4/2005. Mục tiêu của Chương trình này hướng tới là các sản phẩm nông nghiệp truyền thống. Lợi ích của Chương trình 68 đã được Cục SHTT tổng kết lại như sau: “Đã góp phần tạo ra phong trào mạnh mẽ trong công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức về SHTT cho cộng đồng, góp phần chuyển biến tích cực nhận thức của các cấp, ngành và toàn xã hội về SHTT; bước đầu định hình việc sử dụng công cụ SHTT nhằm nâng cao giá trị và tính cạnh tranh của sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm nông nghiệp…”. Điều đó ảnh hưởng đến thực tế đơn đăng ký NHTT thường gắn với địa danh.

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 22/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí