1.1.3. Mối quan hệ giữa kiểu dáng công nghiệp và sáng chế, nhãn hiệu, quyền tác giả,
1.1.3.1. Mối quan hệ giữa kiểu dáng công nghiệp và sáng chế
KDCN và sáng chế đều có điểm chung đó là những hoạt động sáng tạo do con người thực hiện. Tuy nhiên, nếu như sáng chế là những ý tưởng kỹ thuật được tạo ra bằng cách ứng dụng các quy luật tự nhiên và được bảo hộ dưới góc độ kỹ thuật thì KDCN được bảo hộ dưới góc độ thẩm mỹ. Theo quy định của nhiều nước trên thế giới, luật pháp về KDCN không được áp dụng cho hình dáng của vật không có tính trang trí và không có khả năng áp dụng công nghiệp, tuy nhiên trên thực tế không phải lúc nào cũng có thể phân biệt hoàn toàn hai loại hình bảo hộ này, và do vậy một số quốc gia đã đưa ra quy định về khả năng chuyển đổi đơn - Conversion of application, theo đó, đơn đăng kí sáng chế có thể chuyển đổi thành KDCN hoặc ngược lại tùy thuộc vào yêu cầu của người nộp đơn (như quy định tại Điều 13 Luật KDCN Nhật Bản 1959 sửa đổi 2006,…).
1.1.3.2. Mối quan hệ giữa kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu
Điểm giống giữa KDCN và nhãn hiệu đó là chúng đều có tác dụng để phân biệt các sản phẩm cùng loại với nhau. Một đối tượng đăng kí bảo hộ KDCN hay nhãn hiệu đều cần phải được thể hiện thông qua hình ảnh, màu sắc, đường nét hoặc sự kết hợp các yếu tố đó. Do vậy, một khi KDCN thỏa mãn các yếu tố này đồng thời có khả năng phân biệt nguồn gốc sản phẩm, dịch vụ (mang chức năng nhãn hiệu) thì hoàn toàn có khả năng được bảo hộ với tư cách nhãn hiệu (hai chiều hoặc ba chiều). Ví dụ kiểu dáng chai nước ngọt Coca-cola có thể được đăng kí bảo hộ với tư cách nhãn hiệu ba chiều (tại Việt Nam, Coca-cola đã được cấp Văn bằng bảo hộ số 4-0105452-000 ngày 21/7/2008 cho nhãn hiệu Coca-cola), hoặc như một số loại bao bì sản phẩm có thể được bảo hộ theo KDCN, nhãn hiệu hoặc đồng thời cà hai hình thức trên [37, tr.249].
Giữa KDCN và nhãn hiệu có sự khác nhau. Thứ nhất, về mục đích, nếu như bảo hộ KDCN nhằm mục đích bảo hộ sự sáng tạo và kết quả hoạt động sáng tạo do con người tạo ra thì đối với nhãn hiệu, việc bảo hộ nhằm để phân biệt
hàng hóa và đảm bảo uy tín trong kinh doanh cho thương hiệu được bảo bộ. Thứ hai, về điều kiện đăng ký, một kiểu dáng để được bảo hộ dưới hình thức KDCN cần phải gắn liền với một sản phẩm nhất định, còn với nhãn hiệu thì điều này không bắt buộc. Một đối tượng đăng kí bảo hộ với tư cách nhãn hiệu có thể đăng kí bảo hộ cho một sản phẩm hay nhóm sản phẩm, một dịch vụ hay nhóm dịch vụ hoặc nhóm sản phẩm và dịch vụ.
1.1.3.3. Mối quan hệ giữa kiểu dáng công nghiệp và quyền tác giả
KDCN có mối liên hệ khá mật thiết với đối tượng của quyền tác giả (hay bản quyền), đặc biệt là với tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng. Trong nhiều trường hợp, một đối tượng vừa đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo hộ về KDCN đồng thời đáp ứng được tiêu chuẩn bảo hộ về bản quyền có thể được bảo hộ đồng thời theo cả hai cách thức đó hoặc loại trừ một trong hai.
Bảo hộ đồng thời có nghĩa KDCN được đồng thời với tư cách là KDCN và quyền tác giả, do đó, người sáng tạo có thể viện dẫn sự bảo hộ của một trong hai hoặc của cả hai tùy theo sự lựa chọn của mình. Nếu tác giả kiểu dáng không giành được sự bảo hộ theo luật kiểu dáng do không đăng ký thì vẫn có thể yêu cầu luật bản quyền bảo hộ mà không cần tuân theo bất kỳ thủ tục nào. Ngoài ra, sau khi hết thời hạn bảo hộ KDCN thì kiểu dáng vẫn được bảo hộ theo thời hạn của luật bản quyền.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp theo pháp luật Việt Nam - 1
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp theo pháp luật Việt Nam - 2
- Bảo Hộ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Kiểu Dáng Công Nghiệp Theo Pháp Luật Của Một Số Quốc Gia
- Sự Hình Thành Và Phát Triển Của Pháp Luật Việt Nam Về Bảo Hộ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Kiểu Dáng Công Nghiệp
- Điều Kiện Bảo Hộ Kiểu Dáng Công Nghiệp
Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.
Đối với bảo hộ loại trừ thì người sáng tạo phải lựa chọn giữa sự bảo hộ hoặc của luật kiểu dáng hoặc của luật bản quyền. Một khi tác giả chấp nhận sự bảo hộ này sẽ không được viện dẫn sự bảo hộ kia. Ngoài ra, nếu đăng ký bảo hộ theo luật KDCN thì khi hết thời hạn bảo hộ, kiểu dáng cũng sẽ không được bảo hộ tiếp theo quy định của luật bản quyền.
1.1.4. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
1.1.4.1. Quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
Điều 2, Công ước Stockholm năm 1967 về việc thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) định nghĩa khái quát về sở hữu trí tuệ như sau: “ Sở hữu trí tuệ được hiểu rộng hơn và bao gồm các quyền liên quan tới các sản phẩm văn học,
nghệ thuật, khoa học; sự trình diễn của các nghệ sỹ, các chương trình phát và truyền thanh, phát và truyền hình; các sáng chế thuộc mọi lĩnh vực; các phát minh khoa học; kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, các tên thương mại và chỉ dẫn thương mại, chống cạnh tranh không lành mạnh và các quyền khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, văn học, nghệ thuật.”
Căn cứ định nghĩa trên và phù hợp với quan niệm truyền thống về SHTT, quyền SHCN được coi là một bộ phận của quyền SHTT. Quyền SHCN là một dạng quyền tài sản, đó là quyền đối với loại tài sản vô hình, có giá trị thương mại và được bảo hộ. Quyền sở hữu công nghiệp đối với KDCN phát sinh trên cơ sở văn bằng bảo hộ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp.
(i) Chủ thể quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
- Tác giả kiểu dáng công nghiệp:
KDCN là do con người tạo ra và người sáng tạo ra KDCN được gọi là tác giả. Như vậy, tác giả của KDCN chính là người trực tiếp bằng lao động trí óc, bằng sự sáng tạo của cá nhân đã tạo ra hình dáng của sản phẩm và được pháp luật thừa nhận là KDCN và được bảo hộ. Và trong trường hợp KDCN đó được tạo ra do sự sáng tạo của hai người trở lên thì họ được gọi là đồng tác giả.
- Chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp:
Chủ sở hữu KDCN có thể là cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ KDCN hoặc được chuyển giao quyền SHCN đối với KDCN.
(ii) Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
- Quyền tài sản của chủ sở hữu
Không giống như quyền sở hữu đối với các loại tài sản thông thường, do tính đặc thù của quyền SHTT nói chung và quyền SHCN nói riêng mà khi qui định quyền của chủ sở hữu KDCN, pháp luật qui định quyền sử dụng và quyền định đoạt mà hầu như không nhắc tới quyền chiếm hữu.
- Quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả
Quyền nhân thân của tác giả là quyền gắn liền với tác giả, không thể chuyển dịch ( trừ trường hợp ngoại lệ theo điểm c khoản 2 điều 738 BLDS) và được pháp luật bảo hộ vô thời hạn. Tác giả của KDCN gồm hai loại: thứ nhất, tác giả đó đồng thời là chủ sở hữu văn bằng bản hộ (tác giả đã tạo ra đối tượng đó bằng công sức lao động cũng như kinh phí riêng của bản thân); thứ hai là tác giả không đồng thời là chủ sở hữu văn bằng bảo hộ (tác giả sáng tạo ra KDCN dựa trên hợp đồng lao động, hợp đồng thuê hay tác giả đã chuyển giao KCDN đó cho người khác thông qua hợp đồng chuyển nhượng). Tương ứng với hai hình thức đó, pháp luật quy định quyền nhân thân của tác giả.
Quyền tài sản của tác giả KDCN về cơ bản là quyền nhận thù lao từ chủ sở hữu KDCN theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Đây là lợi ích phát sinh từ việc sáng tạo ra KDCN, cũng là phần thù lao bù đắp cho sự nỗ lực sáng tạo, cho lao động trí óc của tác giả; tiền thù lao cũng để trả cho cả chi phí về vật chất mà tác giả đã phải bỏ ra trong suốt quá trình nghiên cứu như tiền mua nguyên vật liệu, thiết bị máy móc,… trong trường hợp tác giả sáng tạo ra KDCN một cách độc lập bằng kinh phí và trí tuệ của riêng mình và sau đó chuyển giao quyền sở hữu đó cho người khác.
Ngoài hai quyền đó thì tác giả còn có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình khi có bất cứ hành vi xâm phạm đến quyền của mình.
Các quyền SHCN đối với KDCN tác giả sẽ phân tích cụ thể trong Chương 2 của luận văn.
1.1.4.2. Bảo hộ quyền sở hữu đối với kiểu dáng công nghiệp
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với KDCN là một bộ phận quan trọng của bảo hộ quyền SHCN nói riêng và quyền SHTT nói chung. Theo nghĩa hẹp, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là việc thực hiện một số hoạt động của các cá nhân, tổ chức có thẩm quyền để ngăn chặn, xử lý bất kỳ sự vi phạm nào nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp được pháp luật bảo hộ.
Theo nghĩa rộng, bảo hộ quyền SHCN là sự ghi nhận về mặt pháp lý tổng thể
các quyền SHCN, quy định những biện pháp, cách thức để thực hiện các quyền đó trên thực tế và việc ngăn chặn, xử lý những hành vi xâm phạm các quyền đó.
Trước khi Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ 1995 (Hiệp định TRIPs) ra đời, khái niệm bảo hộ quyền SHTT thường được hiểu theo nghĩa hẹp. Sự ra đời của Hiệp định TRIPs đã nhấn mạnh đến quan hệ giữa bảo hộ và thực thi quyền, bảo hộ quyền SHTT được tiếp cận theo nghĩa rất rộng. Khi giải thích vấn đề này, Điều 3, 4 Phụ lục của TRIPs đã quy định rõ: “Thuật ngữ bảo hộ phải gồm các vấn đề ảnh hưởng đến khả năng đạt được, việc đạt được, phạm vi, việc duy trì hiệu lực và việc thực thi quyền SHTT cũng như các vấn đề ảnh hưởng đến việc sử dụng quyền SHTT được quy định trong Hiệp định”. Với cách giải thích này, bảo hộ quyền SHTT được hiểu rất rộng, không chỉ bao gồm việc xác lập quyền SHTT cho chủ sở hữu theo trình tự trong pháp luật mà còn chú trọng đến các biện pháp để đảm bảo thực thi quyền này trên thực tế.
Qua sự phân tích trên, khái niệm bảo hộ quyền sở hữu đối với KDCN về phương diện pháp lý có thể hiểu như sau: Bảo hộ quyền sở hữu đối với KDCN là việc Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật xác lập, duy trì quyền SHTT đối với KDCN cho các chủ sở hữu KDCN và áp dụng các biện pháp thực thi quyền nhằm chống lại bất kỳ sự vi phạm nào từ phía các chủ thể khác.
1.1.5. Ý nghĩa của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp
Từ nhiều năm nay, vấn đề thực hiện bảo hộ quyền SHCN đã trở thành những vấn đề chính trên bàn đàm phán về mậu dịch, thương mại giữa các nước trên thế giới. Các nước công nghiệp phát triển thường gây áp lực đối với nước đang phát triển, buộc các nước này phải sửa đổi luật lệ có quy định quyền sở hữu công nghiệp nói riêng và SHTT nói chung một cách nghiêm ngặt hơn.
Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, nhu cầu của người dân không chỉ còn dừng lại ở mức “ăn no, mặc ấm” mà đã được nâng cao lên rất nhiều. Người tiêu dùng không chỉ quan tâm đến chất lượng sản phẩm mà đã đặc biệt chú trọng đến hình thức, kiểu dáng, mẫu mã của sản phẩm.Vì lẽ đó,các doanh
nghiệp đều mong muốn thỏa mãn được thị hiếu của người tiêu dùng với những sản phẩm KDCN tối ưu và giá trị thẩm mỹ cao.Vì vậy, KDCN đã trở thành một trong những lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Để đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh, một sự phát triển kinh tế bền vững, cần thiết phải có một cơ chế bảo hộ KDCN đầy đủ và hiệu quả nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp KDCN, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và hơn nữa là đảm bảo mục tiêu khuyến khích, thúc đẩy sức sáng tạo của con người.
1.2. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp theo các Điều ước quốc tế và pháp luật của một số quốc gia
1.2.1. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp theo các Điều ước quốc tế
Hiện nay có nhiều điều ước quốc tế đa phương và song phương được ký kết giữa các quốc gia có nội dung về bảo hộ KDCN, cũng như đăng ký quốc tế đối với KDCN.
Các điều ước quốc tế đa phương về bảo hộ KDCN hiện nay bao gồm Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp năm 1883; Thỏa ước Lahay 1960 về đăng ký quốc tế đối với KDCN; Hiệp ước Locarno về thiết lập Phân loại quốc tế đối với KDCN năm 1968; Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ 1995 (Hiệp địnhTRIPs). Hiệp ước Locarno về thiết lập Phân loại quốc tế đối với KDCN năm 1968. Sự ra đời của các điều ước quốc tế đa phương đã tạo nên một khung pháp lý thống nhất để bảo hộ KDCN.
- Công ước Paris (1883)
Đây là một trong những Công ước quốc tế đa phương quan trọng đầu tiên về SHCN. Công ước Paris được ký kết với mục đích xây dựng các điều kiện có lợi cho việc cấp Văn bằng bảo hộ cho chủ sở hữu đối tượng SHCN là công dân, pháp nhân của nước này ở nước khác thuộc thành viên Công ước trên nguyên tắc tôn trọng luật SHCN của các nước thành viên [50, tr.217]. Các nước tham gia Công ước Paris đã lập nên một liên minh quốc tế về bảo hộ SHCN (liên minh Paris có trụ sở tại Berne). Từ thời điểm kí kết cho đến nay, Công ước đã trải qua nhiều lần sửa đổi
quan trọng tại các hội nghị quốc tế và lần sửa đổi gần đây nhất là tại hội nghị tổ chức ở Stockholm năm 1967 và được sửa đổi vào năm 1979.
Công ước Paris (bản sửa đổi năm 1979) gồm có 30 điều khoản. Công ước này ghi nhận KDCN là một trong các đối tượng điều chỉnh của Công ước (Điều 1), các nguyên tắc bảo hộ (Điều 2, 3). Tại Điều 4 quy định chung về đăng ký đơn xin cấp Văn bằng bảo hộ cho các đối tượng của quyền SHCN, trong đó có KDCN. Điều 5 Công ước Paris ghi nhận bước đầu rằng KDCN sẽ được bảo hộ tại tất cả các quốc gia thành viên Công ước.
Có thể nói, Công ước Paris 1883 là cơ sở pháp lí quốc tế đầu tiên đặt nền tảng cho việc bảo hộ quốc tế quyền SHCN (bao gồm cả đối tượng là KDCN). Trong khuôn khổ của Công ước Paris, nhiều điều ước quốc tế sau này về SHCN đã được kí kết.
- Thỏa ước Lahay 1960 về đăng kí quốc tế kiểu dáng công nghiệp
Thỏa ước Lahay được kí kết ngày 06/11/1925, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/06/1928 và được sửa đổi, bổ sung một số lần vào năm 1934 tại London, năm 1960 tại Lahay.
Thỏa ước Lahay được kí kết trong khuôn khổ của Công ước Paris, với mục đích làm đơn giản hóa thủ tục đăng kí đã được quy định trong Công ước Paris. Thỏa ước Lahay cho phép công dân của các nước thành viên có được sự bảo hộ các KDCN của họ tại các nước thành viên khác mà mình cần bảo hộ.
- Hiệp ước Locarno về thiết lập Phân loại quốc tế đối với kiểu dáng công nghiệp
Hiệp ước Locarno về thiết lập Phân loại quốc tế đối với KDCN là một điều ước quốc tế đa phương được ký kết vào ngày 08 tháng 10 năm 1968 và chính thức có hiệu lực vào ngày 27 tháng 4 năm 1971 nhằm tạo ra sự phân loại quốc tế thống nhất về KDCN đối với các quốc gia tham gia công ước
Hiện nay, hệ thống phân loại Locarno có ba phần: Danh mục các Nhóm và Phân nhóm (gồm 31 nhóm và 211 phân nhóm); Danh mục hàng hóa theo thứ tự chữ cái mà các kiểu dáng công nghiệp được kết hợp (gồm hơn 6000 đầu mục hàng hóa) và Chú thích giải nghĩa.
Để ứng phó với sự thay đổi trong công nghệ và thương mại, Hiệp ước đã thành lập một Ủy ban chuyên gia để thực hiện việc sửa đổi và bổ sung đối với Phân loại quốc tế về KDCN.
- Hiệp định TRIPs
Tại vòng đàm phán Uruguay về thuế quan và thương mại của GATT vào ngày 15/12/1993, Hiệp định TRIPs – Hiệp định về các vấn đề liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ đã được kí kết. Hiệp định TRIPs bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1995 đối với tất cả các nước là thành viên của GATT (nay là WTO).
Trong số các điều ước quốc tế đa phương có nội dung về bảo hộ KDCN, Hiệp định TRIPs được xem là điều ước quốc tế quan trọng nhất, là nền tảng của pháp luật thương mại quốc tế trong việc bảo hộ quyền SHTT bao gồm cả KDCN.
Vai trò của Hiệp định TRIPs trong việc bảo hộ quyền SHTT nói chung và bảo hộ KDCN nói riêng được thể hiện qua các nội dung sau:
Thứ nhất, ngoài nguyên tắc đối xử quốc gia (National Treatment - NT) là nguyên tắc phổ biến được quy định trong các điều ước quốc tế về SHTT, Hiệp định TRIPs còn quy định áp dụng nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (Most Favoured Nation - MFN) trong việc bảo hộ quyền SHTT. Đây chính là một trong các nguyên tắc trụ cột của thương mại quốc tế nhằm chống phân biệt đối xử, tạo ra sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa thể nhân và pháp nhân của các nước là thành viên của WTO. Với việc quy định nguyên tắc MFN trong Hiệp định TRIPs, các nước thành viên của WTO đã chính thức công nhận SHTT là một lĩnh vực không thể tách rời của thương mại quốc tế.
Thứ hai, Hiệp định TRIPs quy định nguyên tắc, điều kiện cụ thể để bảo hộ KDCN (Điều 25, Điều 26 của Hiệp định) và các biện pháp để thực thi quyền đối với KDCN. Hiệp định TRIPs không quy định các biện pháp thực thi riêng cho từng đối tượng của quyền SHTT, các biện pháp thực thi quyền đối với KDCN tuân theo các quy định chung tại phần III “Thực thi quyền SHTT” của Hiệp định. Các quy định này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc bảo đảm cho quyền SHTT (bao gồm cả quyền SHTT đối với KDCN) của các chủ thể được duy trì, khai thác và sử dụng hiệu quả trên thực tế.