Nội Dung Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Chỉ Dẫn Địa Lý


lý quyền đối với chỉ dẫn địa lý hoặc tên gọi xuất xứ hàng hóa và có tính đến những đặc thù cũng như hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa quy định cụ thể về nguyên tắc hoạt động cũng như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức quản lý tập thể chỉ dẫn địa lý. Chúng ta cần bổ sung các quy định này trong hệ thống pháp luật bảo hộ chỉ dẫn địa lý nhằm bảo vệ và phát triển uy tín của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý và quản lý có hiệu quả quyền đối với chỉ dẫn địa lý.

Theo quy định của Pháp, để quản lý tên gọi xuất xứ có kiểm soát/chỉ dẫn địa lý được bảo hộ người ta lập nên các Văn phòng, Hiệp hội về quản lý tên gọi xuất xứ có kiểm soát/chỉ dẫn địa lý được bảo hộ, ví dụ Văn phòng quốc gia liên ngành rượu Cognac hay Hội đồng quốc gia về tên gọi xuất xứ có kiểm soát các sản phẩm sữa. Các tổ chức này có chức năng, nhiệm vụ riêng để thực hiện việc quản lý các chỉ dẫn địa lý được bảo hộ, vì vậy, việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Pháp rất hiệu quả.


2.4. Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý


Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý được thể hiện ở các quyền sau:

- Quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý;

- Quyền ngăn cấm người khác sử dụng chỉ dẫn địa lý;

- Quyền yêu cầu xử lý vi phạm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

2.4.1. Quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý

Quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý là một đặc điểm nổi bật trong nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý so với các đối tượng sở hữu công nghiệp khác.

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý theo pháp luật Việt Nam - Ninh Thị Thanh Thủy - 11

Quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý được thể hiện ở các hành vi sau: (Điều

124.7 Luật Sở hữu trí tuệ):


- Gắn chỉ dẫn địa lý được bảo hộ lên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh;

- Lưu thông, chào bán, quảng cáo nhằm để bán, tàng trữ để bán hàng hóa mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ;

- Nhập khẩu hàng hóa mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ.

Không giống với các đối tượng này, chỉ dẫn địa lý được mọi tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa sử dụng nếu sản phẩm của họ được sản xuất tại lãnh thổ quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương trong chỉ dẫn với điều kiện hàng hóa được sản xuất ra phải đảm bảo uy tín hoặc danh tiếng vốn có của loại hàng hóa đó. Quyền này xuất phát từ đặc điểm của chỉ dẫn địa lý là tài sản thuộc quyền sử dụng chung của cộng đồng những người sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý tại khu vực địa lý tương ứng.

Pháp luật trước đây về bảo hộ tên gọi xuất xứ quy định sau khi tên gọi xuất xứ được thừa nhận bảo hộ (được đăng bạ), người có quyền sử dụng phải nộp đơn yêu cầu cấp "Giấy chứng nhận quyền sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hóa". Chỉ những người được cấp Giấy chứng nhận đó mới được phép sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hóa liên quan. Bất cứ người nào khác đáp ứng tiêu chuẩn để sử dụng nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận thì đều không được sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hóa. Quy định như vậy là không phù hợp với bản chất của đối tượng này. Tên gọi xuất xứ hàng hóa và chỉ dẫn địa lý được hình thành và phát triển bởi chính những người đã và đang sử dụng chúng. Không có lý do gì để cản trở một người đang sử dụng tên gọi xuất xứ, chỉ dẫn địa lý cho hàng hóa của mình lại phải dừng việc sử dụng lại chỉ vì đối tượng đó được đăng ký bảo hộ nhưng người đó chưa làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hóa.

Tuy nhiên, nếu bất cứ chủ thể nào có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý cũng đều có thể dùng chỉ dẫn địa lý đó gắn lên sản phẩm của mình mà không có sự


kiểm tra, giám sát về chất lượng, tính chất của sản phẩm thì có thể xảy ra trường hợp danh tiếng, uy tín, chất lượng đặc thù của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đó bị ảnh hưởng, gây thiệt hại cho các chủ thể khác. Vì vậy, đòi hỏi phải có cơ chế kiểm soát để bảo đảm hàng hóa mang chỉ dẫn địa lý đưa ra thị trường thực sự đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ. Luật Sở hữu trí tuệ ra đời đã quy định cơ chế quản lý như vậy và đã khắc phục được hạn chế này của Nghị định 63/CP. Theo đó, tổ chức quản lý tập thể quyền đối với chỉ dẫn địa lý sẽ thực hiện nhiệm vụ quản lý (mang tính quản lý tài sản nội bộ, không phải là quản lý nhà nước) việc sử dụng chỉ dẫn địa lý của tất cả các chủ thể liên quan. Việc xác nhận năng lực của các cá nhân, tổ chức trong việc sử dụng chỉ dẫn địa lý cũng như kiểm soát các đặc tính của hàng hóa liên quan sẽ do tổ chức này đảm nhiệm. Đây cũng chính là mô hình đang được áp dụng rất thành công trong việc bảo hộ tên gọi xuất xứ hàng hóa và chỉ dẫn địa lý của các nước châu Âu, chẳng hạn như các Văn phòng, Hiệp hội quản lý tên gọi xuất xứ có kiểm soát, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ ở Pháp hay Tổ chức chứng nhận Liên bang của Thụy Sĩ.

Quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý có một đặc điểm khác biệt so với quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp khác (trừ tên thương mại) đó là quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý không được chuyển giao (Điều 142.1 Luật Sở hữu trí tuệ, Điều 35.1 Nghị định 63, Điều 12.2 Nghị định 54). Do đặc trưng của đối tượng quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý là mối liên hệ mật thiết với khu vực địa lý mà hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra mang đặc trưng địa lý ở khu vực đó (tính lãnh thổ) cho nên quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý không được phép chuyển giao cho bất kỳ một chủ thể nào khác. Đây chính là một đặc trưng riêng biệt về nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý.

2.4.2. Quyền ngăn cấm người khác sử dụng chỉ dẫn địa lý

Theo Điều 125 Luật Sở hữu trí tuệ, chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý và tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng hoặc quyền quản lý chỉ dẫn địa lý có


quyền ngăn cấm người khác sử dụng chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu nếu việc sử dụng đó không thuộc các trường hợp sau:

- Sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ nếu nhãn hiệu đó đã đạt được sự bảo hộ một cách trung thực trước ngày nộp đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý đó;

- Sử dụng một cách trung thực tên người, dấu hiệu mô tả chủng loại, số lượng, chất lượng, công dụng, giá trị, nguồn gốc địa lý và các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ.

Các văn bản pháp luật trước đây không quy định cụ thể về quyền ngăn cấm người khác sử dụng chỉ dẫn địa lý như Luật Sở hữu trí tuệ.

"Người khác" ở đây được hiểu là những chủ thể không có đủ các điều kiện sử dụng chỉ dẫn địa lý như: không ở trong vùng chỉ dẫn địa lý, sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý không đáp ứng các tiêu chuẩn, đặc tính đã được xác định.... Thẩm quyền của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý là cho phép các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý. Các tổ chức, cá nhân khác nếu không được tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý cho phép sẽ không được quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý. Để thực hiện được quyền ngăn cấm người khác sử dụng chỉ dẫn địa lý, tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý cần xác định được các tổ chức, cá nhân nào có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý cũng như có các điều kiện nhân lực và kỹ thuật để thực hiện công việc này.

2.4.3. Quyền yêu cầu xử lý vi phạm

Mục đích của việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý là để bảo vệ uy tín, danh tiếng của sản phẩm mang các chỉ dẫn địa lý đó. Vì vậy, về nguyên tắc bất cứ hành vi sử dụng chỉ dẫn nào gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về xuất xứ thực của sản phẩm liên quan đến một chỉ dẫn địa lý đều bị coi là hành vi xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý đó.


Hiệp định TRIPS quy định một cách nguyên tắc các hành vi bị coi là xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý cùng với các quy định đặc biệt liên quan đến bảo hộ bổ sung cho các chỉ dẫn dùng cho rượu vang và rượu mạnh.

Vì yêu cầu của Hiệp định TRIPS có tính bắt buộc đối với các thành viên của WTO cho nên pháp luật của các nước thành viên bất kể bảo hộ chỉ dẫn địa lý, tên gọi xuất xứ dưới hình thức nào đều phải coi các hành vi quy định tại Điều 22(2) và Điều 23 của Hiệp định này là hành vi xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý, tên gọi xuất xứ hàng hóa. Quy định của Việt Nam cũng không nằm ngoài yêu cầu đó.

Khi có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý, các tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng hoặc quyền quản lý chỉ dẫn địa lý quy định tại khoản 4 Điều 121 Luật Sở hữu trí tuệ có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người khác chấm dứt hành vi xâm phạm đó và bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền gây ra hoặc khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình (Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ).

Theo Điều 129 Luật Sở hữu trí tuệ các hành vi xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý bao gồm:

- Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm mặc dù có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý, nhưng sản phẩm đó không đáp ứng các tiêu chuẩn về tính chất, chất lượng đặc thù của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý;

- Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm tương tự với sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý nhằm mục đích lợi dụng danh tiếng, uy tín của chỉ dẫn địa lý;

- Sử dụng bất kỳ dấu hiệu nào trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm không có nguồn gốc từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý đó làm người tiêu dùng hiểu sai rằng sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực địa lý đó;


- Sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ đối với rượu vang, rượu mạnh cho rượu vang, rượu mạnh không có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó, kể cả trường hợp có nêu chỉ dẫn về nguồn gốc xuất xứ thật của hàng hóa hoặc chỉ dẫn địa lý được sử dụng dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm hoặc được sử dụng kèm theo các từ loại, kiểu, dạng, phỏng theo hoặc những từ tương tự như vậy.

Chúng ta cần phân biệt hành vi xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý với các hành vi giả mạo chỉ dẫn địa lý và hành vi cạnh tranh không lành mạnh về chỉ dẫn địa lý.

Như trên đã nêu, hành vi xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý là hành vi sử dụng chính chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho các sản phẩm không đáp ứng tiêu chuẩn về tính chất, chất lượng, đặc thù của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý hoặc cho các sản phẩm tương tự với sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý nhằm mục đích lợi dụng danh tiếng, uy tín của chỉ dẫn địa lý hoặc hành vi sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ cho sản phẩm không có nguồn gốc từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý đó làm người tiêu dùng nhầm lẫn về nguồn gốc sản phẩm. Hành vi giả mạo chỉ dẫn địa lý cũng là một loại hành vi xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý nhưng là hành vi sử dụng dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý (Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ). Còn hành vi cạnh tranh không lành mạnh về chỉ dẫn địa lý là hành vi sử dụng một chỉ dẫn địa lý nhất định cho các sản phẩm không có nguồn gốc từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý đó gây nhầm lẫn và lừa dối người tiêu dùng. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh về chỉ dẫn địa lý được nhấn mạnh ở hậu quả của hành vi sử dụng chỉ dẫn địa lý đó có làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn và hiểu sai về nguồn gốc thật của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đó hay không, còn hành vi giả mạo chỉ dẫn địa lý được nhấn mạnh ở việc sử dụng một chỉ dẫn có trùng hoặc khó phân biệt với chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ hay không và có sự cho phép của tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý đó hay không.


2.5. Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý


Một trong những nội dung hết sức quan trọng và được xem như là còn yếu trong thời gian vừa qua của Việt Nam trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng đó là vấn đề thực thi quyền. Để nâng cao hiệu quả của công tác thực thi quyền sở hữu trí tuệ, một trong những giải pháp được Đảng và Nhà nước ta chú trọng đó là việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đầy đủ và đồng bộ về việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể, Luật Sở hữu trí tuệ đã dành một phần - Phần thứ năm - với tiêu đề "Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ" (không dùng thuật ngữ "thực thi quyền") với 3 chương, 22 điều bao gồm các nội dung về quyền tự bảo vệ của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp xử lý về hành chính, dân sự, hình sự hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ....

Để quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ được thực thi trong cuộc sống thì trước tiên phải nêu cao tính chủ động tự bảo vệ quyền của chủ thể bằng các biện pháp theo luật định, sau đó mới quy định trách nhiệm bảo vệ quyền của các cơ quan có thẩm quyền. Việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ có thể tiến hành bằng biện pháp dân sự, biện pháp hình sự và biện pháp hành chính, bao gồm cả kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ, trong đó nhấn mạnh đến biện pháp dân sự là chủ yếu thông qua hình thức buộc bồi thường thiệt hại trên cơ sở các mức được ấn định trong Luật Sở hữu trí tuệ. Một trong các biện pháp nâng cao hiệu quả của công tác thực thi quyền đó là dùng các biện pháp ngăn chặn nhằm chống lại các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có tính chất tinh vi, xảo quyệt và có dấu hiệu xóa dấu vết vi phạm, Luật Sở hữu trí tuệ đã quy định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong xử lý dân sự và biện pháp ngăn chặn trong xử lý hành chính.

Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn thi hành của Việt Nam quy định các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp


bao gồm xử lý bằng biện pháp dân sự, hành chính hoặc hình sự. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu công nghiệp, biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản pháp luật có liên quan.

2.5.1. Xử lý hành vi xâm phạm bằng biện pháp dân sự

Luật Sở hữu trí tuệ đã đề cao khía cạnh dân sự của quyền sở hữu trí tuệ thông qua các quy định về xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp dân sự.

Các tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ xử lý tại tòa dân sự sẽ được xem xét đầy đủ làm cho việc xử lý vi phạm đúng đắn, hiệu quả. Đây cũng là sự khẳng định rõ hơn của pháp luật, coi quyền sở hữu trí tuệ là một quyền dân sự (quyền nhân thân, quyền tài sản) mà việc chủ thể quyền sở hữu trí tuệ yêu cầu tòa dân sự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình bị xâm phạm là một quyền hết sức quan trọng, đồng thời là một công cụ hữu hiệu giúp chủ thể quyền sở hữu trí tuệ tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.

Làm rõ về vấn đề này, Luật Sở hữu trí tuệ dành 9 điều (từ Điều 202 đến Điều 210), trong đó gồm các nội dung khá chi tiết về các biện pháp dân sự, quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự, các biện pháp khẩn cấp tạm thời và quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời...

Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền khởi kiện ra tòa án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Theo khoản 4 Điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự, tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ (trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 29 của Bộ luật này) là tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân. Theo khoản 2 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự thì tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ giữa các

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 22/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí