Vai Trò, Ý Nghĩa Của Việc Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Chỉ Dẫn Thương Mại Bằng Biện Pháp Dân Sự


Quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý:

Chỉ dẫn địa lý theo nghĩa đơn giản là dấu hiệu để chỉ dẫn đến một khu vực địa lý cụ thể với các yếu tố tự nhiên, xã hội, kinh tế, dân cư… nhất định. Do sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, những hàng hóa thông thường như các sản phẩm nông ngiệp, thủ công nghiệp…ngày càng tham gia nhiều vào thị trường khu vực và quốc tế. Những dấu hiệu chỉ dẫn xuất xứ địa lý của hàng hóa là những loại nhãn mác ra đời sớm nhất để phân biệt sản phẩm của những người sản xuất ở các vùng khác nhau. Thuật ngữ pháp lý “chỉ dẫn địa lý” mới chỉ xuất hiện gần đây trong đàm phán quốc tế về SHTT và được chính thức thừa nhận trong Hiệp định TRIPs 1994:

Trong Hiệp định này chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng hoá bắt nguồn từ lãnh thổ của một Thành viên hoặc từ khu vực hay địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định.” [35, Điều 22].

Từ định nghĩa này, có thể xác định chỉ dẫn địa lý có ba đặc điểm sau: Một là, chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về nguồn gốc của hàng hóa – là dấu hiệu bất kỳ để chỉ ra nguồn gốc của hàng hóa, không nhất thiết phải là tên địa lý như tên gọi xuất xứ. Hai là, hàng hóa mang chỉ dẫn địa lý phải bắt nguồn từ lãnh thổ, địa phương hay khu vực được chỉ dẫn tới. Ba là, phạm vi bảo hộ chỉ đối với với các chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm mà chất lượng, uy tín hoặc đặc tính của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định.

Do nhu cầu gia nhập WTO và yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật SHTT cho phù hợp với các tiêu chuẩn của TRIPs, hệ thống SHCN của Việt Nam vào thời điểm những năm 90 đứng trước đòi hỏi phải mở rộng phạm vi bảo hộ cho các đối tượng mới được quy định trong TRIPs như chỉ dẫn địa lý,

tên thương mại, bí mật kinh doanh…Mặc khác, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế cũng kích thích hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước cũng như hoạt động lưu thông, xuất nhập khẩu hàng hóa phát triển, nảy sinh nhu cầu bảo hộ đối với các đối tượng mới này. Lần đầu tiên thuật ngữ “Chỉ dẫn địa lý” và các tiêu chí bảo hộ chỉ dẫn địa lý được quy định trong Pháp luật Việt Nam là trong Nghị định số 54/2000/NDD-CP ngày 03/10/2000 của Chính phủ về bảo hộ QSHCN đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới SHCN. Tuy nhiên, tại thời điểm đó các quy định về SHTT của Việt Nam vẫn còn tản mạn, chưa thống nhất ổn định. Xuất phát từ nhu cầu hoàn thiện chính sách pháp luật, các quy định về bảo hộ chỉ dẫn địa lý của Việt Nam ra đời và không ngừng được hoàn thiện, đưa đến sự ra đời khái niệm chỉ dẫn địa lý được quy định tại khoản 22, Điều 4 Luật SHTT Việt Nam “Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể” [18, Điều 4]. So sánh với khái niệm chỉ dẫn địa lý của Hiệp định TRIPs, có thể thấy Luật SHTT Việt Nam đơn thuần chỉ định nghĩa như thế nào là một chỉ dẫn địa lý, mà không bao hàm các tiêu chuẩn để chỉ dẫn địa lý đó được bảo hộ mà tách các điều kiện bảo hộ ra khỏi khái niệm và quy định cụ thể ở các Điều 79, Điều 80 của Luật này. Điều này giúp người đọc nhận thức một cách nhanh chóng và tiếp cận dễ dàng hơn về khái niệm chỉ dẫn địa lý.

Từ những phân tích trên, ta có thể hiểu một cách chung nhất về QSHCN đối với chỉ dẫn địa lý là quyền của các chủ thể do pháp luật quy định hoặc thừa nhận đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt các sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể, bao gồm các dấu hiệu nhìn thấy được là từ ngữ nếu nó chỉ dẫn đến một khu vực địa lý nhất định hoặc hình ảnh, biểu tượng mô tả một khu vực địa lý nào đó.

Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại:

Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân sử dụng trong hoạt động kinh doanh, dùng để nhận biết và phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực [18, Điều 4].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

Về cơ bản, do được sử dụng trong hoạt động kinh doanh hàng ngày của doanh nghiệp, nên tên thương mại sẽ phải đáp ứng các yêu cầu mà pháp luật doanh nghiệp dành cho tên doanh nghiệp. Theo đó, tên thương mại phải là tập hợp các chữ, phát âm được và có nghĩa. Tên thương mại gồm hai phần: phần mô tả và phần phân biệt. Phần mô tả là tập hợp các từ có nghĩa mô tả tóm tắt loại hình kinh doanh.

Tên thương mại lần đầu tiên được đề cập đến trong Công ước Paris 1883. Điều 8 Công ước Paris quy định: Tên thương mại được bảo hộ ở tất cả các nước thành viên của liên minh mà không bị bắt buộc phải nộp đơn hoặc đăng ký, bất kể tên thương mại đó có hay không là một phần của một nhãn hiệu hàng hóa. Bên cạnh đó, Điều 9 của Công ước cũng quy định các biện pháp lý ngăn ngừa vi phạm:

Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự theo pháp luật Việt Nam - 4

(1) Tất cả hàng hoá mang nhãn hiệu hàng hoá hoặc tên thương mại một cách bất hợp pháp đều bị thu giữ khi nhập khẩu vào những nước thành viên của Liên minh nơi nhãn hiệu hàng hoá hoặc tên thương mại đó được bảo hộ pháp lý. (2) Việc thu giữ hàng hoá cũng thực hiện tại nước nơi xảy ra việc gắn nhãn hiệu hàng hoá hoặc tên thương mại một cách trái phép hoặc tại nước nơi hàng hoá đã được nhập khẩu vào. (3) Theo luật quốc gia của mỗi nước, việc thu giữ hàng hoá được tiến hành theo yêu cầu của cơ quan công tố, hoặc của bất kỳ cơ quan có thẩm quyền nào khác, hoặc của bất kỳ cá nhân hoặc pháp nhân nào có liên quan. (4) Các cơ quan có thẩm quyền không bị bắt buộc phải thu giữ hàng hoá quá cảnh. (5) Nếu luật pháp quốc gia của một nước không cho phép thu giữ hàng hoá khi nhập

khẩu, việc thu giữ được thay thế bằng biện pháp cấm nhập khẩu hoặc thu giữ hàng hoá trong nội địa. (6) Nếu luật pháp quốc gia của một nước không cho phép thu giữ hàng hoá khi nhập khẩu, cũng như không cho phép cấm nhập khẩu hoặc thu giữ hàng hoá trong nội địa thì chừng nào luật quốc gia đó chưa được sửa đổi một cách phù hợp, những biện pháp đó được thay thế bằng các hành động và biện pháp phù hợp mà luật của nước đó áp dụng trong những trường hợp tương tự như vậy đối với các công dân của mình. [29, Điều 9]

Tại phần II của Hiệp định TRIPs không có quy định về tên thương mại, như vậy có thể cho rằng toàn bộ các quy định về bảo hộ tên thương mại trong Công ước Paris được thừa nhận như là các quy định đầy đủ về tên thương mại trong Hiệp định TRIPs.

Từ những phân tích trên đây, ta có thể hiểu một cách khái quát nhất về QSHCN đối với tên thương mại là quyền của các chủ thể do pháp luật quy định hoặc thừa nhận đối với các dấu hiệu dùng để nhận biết và phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực.

1.3.2. Vai trò, ý nghĩa của việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự

Bảo vệ QSHCN đối với chỉ dẫn thương mại có thể được hiểu là sự tác động bằng pháp luật thông qua việc sử dụng các biện pháp dân sự, biện pháp hành chính, biện pháp hình sự, biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới liên quan đến chỉ dẫn thương mại nhằm ngăn chặn, chống lại những hành vi xâm phạm để bảo vệ QSHCN đối với chỉ dẫn thương mại hợp pháp đã được nhà nước công nhận bảo hộ.

Xuất phát từ QSHCN đối với chỉ dẫn thương mại nói chung thực chất là một quyền tài sản, cũng là một quyền dân sự đặc biệt. Chính vì vậy khi xem

xét những biện pháp bảo vệ QSHCN bao gồm biện pháp dân sự, biện pháp hành chính, biện pháp hình sự, biện pháp kiểm soát biên giới, có thể nhận thấy biện pháp dân sự là phù hợp với bản chất của QSHCN đối với chỉ dẫn thương mại. Biện pháp dân sự khi áp dụng sẽ giải quyết thảo đáng mối quan hệ tài sản giữa chủ thể quyền bị xâm phạm với bên xâm phạm quyền, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền, bù đắp những thiệt hại do bên xâm phạm quyền gây ra. Ưu điểm này không được thể hiện trong các biện pháp còn lại bởi biện pháp hành chính, biện pháp hình sự, biện pháp kiểm soát biên giới nhìn chung nhằm đảm bảo trật tự quản lý nhà nước, trật tự xã hội giữa một bên chủ thể là Nhà nước với một bên có hành vi xâm phạm, được áp dụng khi Nhà nước nhận thấy khi cần thiết. Các biện pháp này mang đặc trưng mệnh lệnh – phục tùng buộc hành vi xâm phạm phải chịu những chế tài trừng phạt, răn đe ở các mức độ khác nhau. Trong quan hệ này không tính đến bên có quyền bị xâm phạm, những thiệt hại của chủ sở hữu quyền không được đặt ra để xác định mức bồi thường. Ngược lại, biện pháp dân sự được xem là biện pháp duy nhất xác định được mức thiệt hại của hành vi xâm phạm gây ra cho chủ thể quyền, khắc phục được những thiệt hại vật chất cho chủ thể quyền, bảo đảm khôi phục tình trạng ban đầu khi quyền sở hữu chưa bị xâm phạm.

Xét về khả năng áp dụng, bảo vệ QSHCN đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự có khả năng áp dụng rộng hơn so với các biện pháp còn lại. Bất cứ khi nào chủ thể quyền thấy quyền lợi hợp pháp của mình bị xâm phạm có thể yêu cầu tòa án can thiệp để bảo vệ quyền lợi cho mình một cách hợp pháp, đồng thời nguyên đơn có thể đưa ra những yêu cầu khi khởi kiện hoặc thay đổi yêu cầu trong quá trình giải quyết vụ án. Chính vì vậy, việc lựa chọn biện pháp dân sự để xử lý các hành vi xâm phạm, bảo vệ QSHCN đối với chỉ dẫn thương mại là hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của xã hội.

1.4. Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại

Bảo vệ QSHCN đối với chỉ dẫn thương mại là việc Nhà nước, chủ thể của quyền, các tổ chức, cá nhân khác sử dụng các biện pháp tác động bằng pháp luật nhằm ngăn chặn, khắc phục và xử lý các hành vi xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn thương mại. Khi có hành vi xâm phạm quyền SHTT nói chung, xâm phạm QSHCN đối với chỉ dẫn thương mại nói riêng, việc xác định biện pháp nào sẽ được áp dụng để bảo vệ quyền sở hữu căn cứ vào hai yếu tố: một là, sự lựa chọn của người bị xâm hại; hai là, tính chất, mức độ xâm phạm QSHCN đối với chỉ dẫn thương mại. Nhà nước với vai trò chủ đạo đã thiết lập một hệ thống pháp luật với những biện pháp bảo vệ nhất định nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm, bảo vệ QSHCN đối với chủ thể quyền. Căn cứ vào cơ quan có thẩm quyền áp dụng và tính chất của các biện pháp bảo vệ, Luật SHTT quy định các biện pháp bao gồm: Biện pháp dân sự, biện pháp hành chính, biện pháp hình sự và biện pháp kiểm soát biên giới.

1.4.1. Biện pháp dân sự

Biện pháp dân sự là biện pháp mà các bên trong quan hệ dân sự thông qua Nhà nước tác động lên các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân làm cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi, chấm dứt theo ý chí của Nhà nước. Bản chất của biện pháp dân sự là điều chỉnh các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân, trong đó chủ thể tham gia bình đẳng với nhau về địa vị pháp lý.

Các đối tượng sở hữu công nghiệp được coi là một loại tài sản và QSHCN có bản chất là một loại quyền sở hữu tài sản. Bởi vậy, QSHCN mang bản chất của một quyền dân sự. Việc bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự tuân thủ theo những nguyên tắc chung của Luật Dân sự, Luật Tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Thông thường, các vụ kiện dân sự đều được giải quyết tại Tòa án. Theo quy định của các Điều 25, 29, 33, 34 BLTTDS 2004, thẩm quyền giải quyết tranh chấp về sở hữu công nghiệp được xác định như sau: nếu tranh chấp về sở hữu công nghiệp thuần túy là tranh chấp dân sự thì thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện; Nếu tranh chấp sở hữu công nghiệp thuần túy là tranh chấp dân sự nhưng có đương sự hoặc đối tượng sở hữu công nghiệp ở nước ngoài thì thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; Nếu tranh chấp sở hữu công nghiệp giữa các nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận thì được coi là tranh chấp thương mại, kinh doanh và thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

Việc bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự có thể được khái quát như sau:

- Quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự: theo Điều 203 Luật SHTT, nguyên đơn và bị đơn trong vụ kiện xâm phạm quyền SHTT có quyền và nghĩa vụ chứng minh theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn trong vụ kiện xâm phạm phải cung cấp các chứng cứ khẳng định quyền hợp pháp của mình như văn bằng bảo hộ hoặc các căn cứ chứng minh mình là người có quyền; cung cấp các chứng cứ về hành vi xâm phạm như các tài liệu, mẫu vật thể hiện đối tượng được bảo hộ, các tài liệu mẫu vật, ảnh chụp hoặc bản ghi hình sản phẩm bị xem xét là có yếu tố xâm phạm, các công văn trả lời của cơ quan có thẩm quyền giám định sau khi giám định sản phẩm bị xem xét…; cung cấp các chứng cứ thiệt hại (nếu có) như bản kê khai hoặc bản thuyết minh các loại thiệt hại, các kết quả giám định, thẩm định…Nếu không cung cấp được chứng cứ hoặc những chứng cứ đó không đáng tin cậy để chứng minh được hành vi xâm phạm QSHCN của mình, Tòa án sẽ bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn.

- Các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm QSHCN theo trình tự dân sự: tùy theo tính chất, nội dung và mức độ xâm phạm QSHCN của mình, người nắm giữ quyền có thể yêu cầu Tòa án áp dụng và thực hiện một hoặc một số các biện pháp xử lý sau: Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; Buộc xin lỗi, cải chính công khai; Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; Buộc bồi thường thiệt hại. Lần đầu tiên, Luật SHTT đã đưa ra nguyên tắc xác định thiệt hại và các căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm QSHTT (Điều 204 và 205, Luật SHTT). Đây là một điểm mới rất quan trọng của Luật Sở hữu trí tuệ so với các văn bản trước đây.

Nhằm đối phó với tình trạng tẩu tán, tiêu hủy tang vật xâm phạm hoặc tẩu tán tài sản dùng để thi hành lệnh xử lý hoặc bồi thường trong các tình huống đặc biệt, nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa án ra lệnh áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, để thuyết phục Tòa án thực hiện áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì nguyên đơn phải chứng minh nguy cơ nếu không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ đe dọa việc tiến hành xét xử hoặc cản trở việc thi hành các biện pháp xử lý, khắc phục hậu quả thi hành án sau này, và cam kết đền bù mọi thiệt hại cho bên bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu việc áp dụng không xác đáng.

Có thể nói, so với các văn bản pháp luật quy định về bảo vệ QSHTT ở nước ta trước đây, Luật SHTT đã đặc biệt chú trọng đến biện pháp dân sự như một biện pháp quan trọng. Điều này là hợp lý vì bản chất QSHTT nói chung, QSHCN nói riêng là một loại quyền dân sự đặc thù – quyền đối với những tài sản vô hình nên trình tự dân sự phải được áp dụng ưu tiên và phổ biến nhằm điều chỉnh các quan hệ liên quan đến loại tài sản này. Biện pháp dân sự có khả năng giải quyết thỏa đáng và triệt để những thiệt hại mà chủ sở hữu quyền bị xâm phạm phải chịu.

Xem tất cả 118 trang.

Ngày đăng: 22/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí