bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ là một trong những ưu điểm của biện pháp dân sự so với các biện pháp hình sự và hành chính, tuy nhiên, các quy định của pháp luật hiện hành về biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ còn chưa thực sự hữu hiệu.
Các biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại Điều 102 của Bộ luật tố tụng dân sự, gồm có 12 biện pháp sau đây:
1. Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
2. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.
3. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm.
4. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
5. Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải người lao động.
6. Kê biên tài sản đang tranh chấp.
7. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
8. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.
Có thể bạn quan tâm!
- Xác Định Thiệt Hại Và Mức Bồi Thường Thiệt Hại Do Hành Vi Xâm Phạm Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Chỉ Dẫn Thương Mại
- Thực Trạng Xử Lý Hành Vi Xâm Phạm Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Chỉ Dẫn Thương Mại Bằng Biện Pháp Dân Sự
- Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự theo pháp luật Việt Nam - 11
- Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự theo pháp luật Việt Nam - 13
- Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự theo pháp luật Việt Nam - 14
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
9. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác.
10. Phong toả tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong toả tài sản ở nơi gửi giữ.
11. Phong toả tài sản của người có nghĩa vụ.
12. Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định. [18, Điều 102]
Trong số 12 biện pháp nêu trên thì trong quan hệ tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ chỉ có thể yêu cầu Tòa án áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời sau đây: kê biên tài sản đang tranh chấp;
cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; phong toả tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong toả tài sản ở nơi gửi giữ; phong toả tài sản của người có nghĩa vụ; cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định.
Điều 207 Luật SHTT quy định bổ sung một số biện pháp khẩn cấp tạm thời áp dụng đối với hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện sản xuất, kinh doanh hàng hoá đó, bao gồm:
- Thu giữ;
- Kê biên;
- Niêm phong; cấm thay đổi hiện trạng; cấm di chuyển;
- Cấm chuyển dịch quyền sở hữu. [18, Điều 207]
Như vậy có thể thấy các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật hiện hành có thể áp dụng trong các vụ án tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ là tương đối ít, đặc biệt là các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự chưa được cụ thể hóa đối với các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, còn mang tính chung chung. Điều này đã gây không ít khó khăn cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ trong việc yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Các quy định của pháp luật hiện hành về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chưa góp phần làm ngăn chặn một cách nhanh chóng, kịp thời các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Điều này cũng đồng nghĩa với việc ưu thế về quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của biện pháp dân sự chưa được phát huy trên thực tiễn. Thực tiễn giải quyết các vụ án tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ trong những năm qua chúng tôi thấy rất ít trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nào từ phía các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.
Như vậy, với thời gian giải quyết kéo dài cộng với việc các hành vi xâm phạm chưa được ngăn chặn một cách kịp thời có thể là nguyên nhân dẫn đến việc các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ e ngại việc khởi kiện ra Tòa án để xử lý bằng biện pháp dân sự mà thay vào đó, họ chọn việc xử lý hành vi xâm phạm bằng biện pháp hành chính.
3.2. Một số đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự
Việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự là một quá trình liên tục, có nhiều khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự quan tâm, nỗ lực của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc soạn thảo, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ pháp luật liên quan đến bảo vệ QSHCN.
Trong những năm gần đây, chúng ta đang tích cực triển khai xây dựng hệ thống pháp luật về SHTT, về cơ bản hệ thống pháp luật này đã được xây dựng trên nguyên tắc phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về SHTT và đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước trong điều kiện hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, do việc ban hành vào nhiều thời điểm khác nhau nên hệ thống pháp luật chưa được đồng bộ, cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện. Mặt khác, việc thực thi pháp luật bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự của chúng ta chưa được như mong muốn do rất nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, đòi hỏi chúng ta cần sớm có biện pháp khắc phục.
Có thể thấy, với hệ thống pháp luật cũng như thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự là chưa tương xứng, đòi hỏi chúng ta cần nghiên cứu để có giải pháp tháo gỡ. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nêu, xin đưa ra một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự.
3.2.1. Nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật
* Hoàn thiện pháp luật về thủ tục tố tụng
BLTTDS năm 2004 là công cụ pháp lý quan trọng của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và các vụ việc dân sự về QSHCN nói riêng. Sau khi Quốc hội thông qua Luật SHTT ngày 29/11/2005 (sửa dổi, bổ sung năm 2009), đối chiếu các quy định của Luật SHTT với các quy định của BLTTDS ta thấy xuất hiện nhiều điểm không thống nhất. Đặc biệt, liên quan đến việc giải quyết vụ án dân sự về SHTT, do vậy, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTDS về các biện pháp khẩn cấp tạm thời, về sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước về SHTT trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án. Cụ thể:
- Cần bổ sung vào Điều 99 của BLTTDS về “Quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời”. Theo đó, tại khoản 2 Điều 99 cần quy định: “khi khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện, nguyên đơn là chủ thể QSHTT có quyền yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong các trường hợp: Đang có nguy cơ xảy ra thiệt hại không thể khắc phục được cho chủ thể QSHTT; hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm QSHTT hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi xâm phạm QSHTT có nguy cơ bị tẩu tán hoặc bị tiêu hủy nếu không được bảo vệ kịp thời.”. Việc bổ sung này là rất cần thiết, phù hợp với các quy định trong các điều ước về SHTT mà Việt Nam là thành viên và đảm bảo cho phán quyết của Toà án được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả.
- Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 120 của BLTTDS về: “Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm” theo đó cần quy định người yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời do Luật SHTT quy định phải nộp khoản tiền bằng 20% giá trị hàng hóa cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc tối thiểu 20 triệu đồng nếu không thể xác định được giá trị hàng
hóa đó hoặc phải có chứng từ bảo lãnh của ngân hàng hoặc của tổ chức tín dụng khác.
- Cần sửa đổi, bổ sung Điều 23 của BLTTDS theo hướng: “các cơ quan quản lý nhà nước về SHTT có trách nhiệm tham gia tố tụng dân sự đối với các vụ án về bảo vệ QSHTT khi có yêu cầu của Tòa án”. Quy định này nhằm làm giảm bớt thời gian giải quyết của Toà án, các bên liên quan trực tiếp trao đổi, cho ý kiến chuyên môn tại Toà, qua đó giúp nâng cao trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong quá trình giải quyết vụ việc.
* Hoàn thiện pháp luật về nội dung
Về căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại
Mục tiêu của chủ sở hữu đối tượng QSHCN khi yêu cầu Toà án bảo vệ QSHCN của họ bằng biện pháp dân sự là được bồi thường thoả đáng và kịp thời. Do đó, nếu phán quyết của Toà án về mức bồi thường không hợp lý, lợi ích của chủ sở hữu không được bảo vệ đúng mức thì thì hiệu quả của biện pháp dân sự không đạt được. Để xác định mức bồi thường thiệt hại hợp lý, cần có hướng dẫn dựa trên tính chất của hành vi xâm phạm, hậu quả, mức độ thiệt hại, thời gian và phạm vi xảy ra hành vi xâm phạm để Toà án áp dụng. Mức bồi thường thiệt hại do Toà án quyết định nhưng không quá năm triệu đồng chỉ được áp dụng trong trường hợp theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 205 Luật SHTT (khi không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo các căn cứ quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 205 Luật SHTT). Thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm do bị xâm phạm cần đánh giá thông qua chứng minh của đương sự, qua tài liệu cung cấp của cơ quan, nơi cư trú của đương sự…
Việc xác định thiệt hại của chủ sở hữu các đối tượng QSHCN và lợi nhuận thu được từ hành vi xâm phạm QSHCN cần được thể hiện rõ ràng hơn trong luật. Đối với chi phí để thuê Luật sư phải là các khoản chi cụ thể cho
việc Luật sư tiến hành công việc, chi phí này phải hợp lý theo giá trung bình để hoàn thành công việc, căn cứ để thanh toán là hoá đơn, chứng từ do đương sự cung cấp.
Hướng dẫn về hành vi xâm phạm
Khi xác định hành vi xâm phạm QSHCN, phải chú ý phân biệt hành vi không bị coi là xâm phạm QSHCN theo quy định tại điều 125 của Luật SHTT. Do đó, cá nhân, tổ chức thực hiện một trong các hành vi quy định tại các khoản 2 và 3 Điều 125 của luật SHTT thì không bị coi là xâm phạm QSHCN. Khi có đơn khởi kiện đối với các hành vi xâm phạm QSHCN, cần xem xét kỹ nội dung đơn của người khởi kiện để xác định hành vi đó có thuộc một trong các trường hợp nêu trên hay không, nếu có thì Tòa án phải giải thích cho người khởi kiện biết, trả lại đơn và không thụ lý giải quyết. Trường hợp đã thụ lý xong mới phát hiện thấy đây không phải là hành vi xâm phạm QSHCN, thì Tòa án phải ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 192 của BLTTDS.
Về định giá tài sản SHCN
Đây là vấn đề hoàn toàn mới. Khái niệm về việc định giá tài sản SHCN hoàn toàn là mới mẻ. Hiện nay, trong lĩnh vực SHCN chưa có cơ quan định giá chuyên trách, vì vậy kết quả của hội đồng định giá chỉ được Tòa án chấp nhận khi Hội đồng định giá đó được thành lập theo quy định của pháp luật hiện hành. Do vậy, trong thời gian tới cần thiết phải thành lập cơ quan định giá chuyên trách về SHCN để đáp ứng cho yêu cầu của lĩnh vực này .
Về thời hạn trong tố tụng dân sự
Theo quy định hiện hành thì thủ tục tố tụng dân sự đối với vụ án xâm phạm QSHCN được tiến hành theo trình tự chung là khá phức tạp, kéo dài thời gian. Thông thường một vụ kiện dân sự từ khi nộp đơn khởi kiện cho đến khi được đưa ra xét xử phải mất 4 đến 6 tháng, có trường hợp phải kéo dài
hơn do qua nhiều cấp xét xử, do đó đối với các vụ án về SHCN cần có hướng dẫn hợp lý các trường hợp như tạm hoãn, tạm đình chỉ... để tránh kéo dài thời gian giải quyết của Tòa án. Nên quy định thời hạn tối đa để giải quyết vụ kiện là không quá 2 tháng kể từ ngày nộp đơn hợp lệ.
Về sự phối hợp giữa Tòa án và các cơ quan chức năng về SHCN
Trong quá trình giải quyết các tranh chấp về QSHCN cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Tòa án, Viện Kiểm sát với các cơ quan chức năng về SHTT để cùng tham gia khi có vấn đề về chuyên môn liên quan. Cụ thể khi Tòa án có văn bản lấy ý kiến, thì tùy từng trường hợp cụ thể mà các cơ quan chức năng có trách nhiệm trả lời về các vấn đề mà Tòa án yêu cầu hoặc thành lập hội đồng giám định để thực hiện yêu cầu của Tòa án theo quy định của pháp luật. Khi xét xử các vụ án dân sự liên quan đến QSHCN, Tòa án cần thông báo để các cơ quan này có thể tham gia tố tụng hoặc theo dõi kết quả bảo vệ QSHCN trong phạm vi chức năng của mình. Trong quá trình xử lý xâm phạm, giải quyết tranh chấp, nếu thấy hành vi xâm phạm QSHCN đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của BLHS thì các cơ quan chức năng thông báo và chuyển hồ sơ, tài liệu cho cơ quan điều tra để thụ lý giải quyết.
3.2.2. Nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật về tổ chức
Lĩnh vực nghiên cứu SHCN nói chung và các đối tượng đước xác định là chỉ dẫn thương mại nó i riêng là lĩnh vực chuyên môn sâu, phức tạp, vì vậy, việc giải quyết tranh chấp về SHTT cần có Toà án chuyên trách thực hiện nhiệm vụ này. Nhằm tạo sự bình đẳng trong các quan hệ pháp luật thì việc giải quyết hiệu quả, công bằng, “thấu tình, đạt lý” các tranh chấp là điều không thể thiếu. So với các biện pháp giải quyết tranh chấp khác, các hình
thức xử phạt của Toà án đối với các hành vi xâm phạm QSHTT dường như nghiêm khắc và có khả năng răn đe hơn cả.
Nhiều quốc gia trên thế giới đã có hệ thống Tòa án SHTT như Mỹ, Nhật, Thái Lan…Do tính đặc thù của biện pháp dân sự và sự cần thiết phải tăng cường bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự nên đây là cơ sở để hình thành hệ thống Tòa án chuyên biệt về SHTT. Thực tế, việc thành lập Tòa chuyên biệt như Thái Lan, Đức... đã tỏ ra rất hiệu quả đối với sự phát triển thương mại và đầu tư quốc tế, trong những năm nửa cuối của thập niên 90, trong điều kiện nhiều lĩnh vực kinh doanh và tài chính gặp khó khăn nhưng Thái Lan đã quyết tâm thành lập Tòa án Trung ương về SHTT và Thương mại quốc tế (viết tắt là Tòa IP&IT).
Tại Việt Nam, trong tiến trình cải cách tư pháp, việc kiện toàn cơ cấu tổ chức của các TAND là tất yếu cần thiết và không phải là ngoại lệ. Mặc dù ở hầu hết các nước, các loại việc về QSHTT bao gồm các loại việc dân sự, hình sự và hành chính, nhưng một số nước như Cộng hòa Liên bang Đức, Thái Lan... đã thành lập Tòa án chuyên biệt xét xử các vụ xâm phạm về SHTT; một số nước lại có các Tòa chuyên xét xử các vụ xâm phạm về SHTT nằm trong Tòa án. Ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Anh và Xứ Wales chỉ có Tòa SHTT giải quyết các vụ án dân sự về SHTT mà không có Tòa chuyên trách để giải quyết các vụ án hình sự về SHTT, các vụ án hình sự về SHTT được giải quyết theo thủ tục thông thường. Các nước này đều có Tòa án về Văn bằng sáng chế, Tòa này có thẩm quyền đối với các vụ việc dân sự, phúc thẩm các quyết định của Văn phòng về Văn bằng sáng chế.
Theo Luật sư Thomas. J. Treutler, cố vấn cao cấp công ty Luật Tikelle & Gibbins tại Việt Nam, Việt Nam nên thiết lập một toà án chuyên chuyên dành cho xét xử các vụ việc liên quan đến sở hữu trí tuệ. Đây là một lĩnh vực rất phức tạp, trước mắt có thể lập toà án ở một số tỉnh thành lớn như: Hà Nội, Tp.HCM, Đà Nẵng... và có những thẩm phán chuyên về sở hữu trí tuệ. Làm được điều này, các chủ sở hữu sẽ có lòng tin tốt hơn vào kết quả và có thể họ