Thống Kê Số Đơn Chỉ Dẫn Địa Lý Đã Nộp Từ Năm 2000 - 2008


của Việt Nam được xem xét trong kế hoạch bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong vòng 10 năm tới, trong đó tiêu biểu là các nông sản nổi tiếng như Hạt tiêu Phú Quốc, Chè Tân Cương, Cà phê Robusta Buôn Hồ...

Một số dự án được thực hiện để xây dựng và bảo hộ cho các loại nông sản như: sầu riêng Cái Mơn, nhãn xuồng Chợ lách Bến Tre, măng cụt Lái Thiêu, nho Ninh Phủ, dưa hấu Gò Công, bưởi Da Xanh, bưởi năm roi Hoàng Gia, cam Tam Bình Vạn Xuân, vú sữa Lò Rèn, xoài cát Hòa Lộc Sông Hậu, gạo Sohafarm, vải thiều Lục Ngạn, chôm chôm Long Khánh, măng cụt Giáng Châu, kẹo dừa Bến Tre.

Chúng ta cũng đã có những chương trình hợp tác với một số nước trên thế giới trong lĩnh vực chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ. Ví dụ như hợp tác Pháp -Việt từ năm 1998. Kết quả của chương trình hợp tác này là năm 2001, hai sản phẩm đầu tiên mang tên gọi xuất xứ ở cấp quốc gia là nước mắm Phú Quốc và chè Shan Tuyết Mộc Châu đã được công nhận ở phạm vi quốc gia và được Pháp công nhận. Năm 2002, tên gọi xuất xứ được kiểm soát Cognac được công nhận tại Việt Nam đã cho phép sản phẩm này tuyên chiến với việc sản xuất rượu giả đồng thời mở đầu cho Việt Nam công nhận các chỉ dẫn địa lý khác của Châu Âu hoặc ngoài Châu Âu. Rượu Cognac là sản phẩm mang tên gọi xuất xứ được kiểm soát đầu tiên của nước ngoài được Việt Nam công nhận.

Ngoài ra, chúng ta cũng đã hợp tác với Thụy Sĩ trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung và chỉ dẫn địa lý nói riêng. Ngày 16/7/2007, Việt Nam và Thụy Sĩ đã ký kết chương trình hợp tác Việt Nam - Thụy Sĩ về sở hữu trí tuệ tạo tiền đề để hai bên ký một Hiệp định song phương về bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Trên thực tế, nhiều chỉ dẫn địa lý của Việt Nam cần được bảo hộ trên thế giới và Thụy Sĩ cũng có nhiều sản phẩm nổi tiếng cần được bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam và nước ngoài. Hiệp định này ký kết nhằm bảo hộ song phương lẫn nhau về chỉ dẫn địa lý, ví dụ nếu Hiệp định được ký kết thì các chỉ dẫn địa lý được công nhận ở Việt Nam sẽ được bảo hộ tự động ở Thụy Sĩ và ngược lại đồng thời tăng cường cho các cơ quan chức năng bảo hộ các sản phẩm đặc thù


của hai bên, tránh hiện tượng hàng nhái, hàng giả làm ảnh hưởng đến người tiêu dùng.

Việc bảo hộ một chỉ dẫn địa lý có thể mang lại hiệu quả kinh tế lớn, tạo ra giá trị gia tăng cho vùng địa lý đó. Ngoài việc sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý được bán với giá cao hơn các sản phẩm cùng loại khác, vùng đó cũng sẽ có cơ hội phát triển các dịch vụ khác đặc biệt là dịch vụ du lịch. Hơn nữa, việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý còn tác động tích cực đối với nông nghiệp và phát triển nông thôn như tạo ra công ăn việc làm cho người dân trong vùng, góp phần giữ gìn truyền thống văn hóa thông qua việc sản xuất sản phẩm có chất lượng đặc trưng bằng phương pháp, bí quyết và quy trình truyền thống. Mặc dù vậy, việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam còn gặp khó khăn và chưa tương xứng với tiềm năng thực sự của các chỉ dẫn địa lý.

Cho đến nay, số lượng chỉ dẫn địa lý của Việt Nam được đăng ký bảo hộ rất khiêm tốn. Theo thống kê của Cục Sở hữu trí tuệ [17], số lượng đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý, tên gọi xuất xứ đã được nộp cho Cục Sở hữu trí tuệ từ năm 2000 đến ngày 31/12/2008 như sau:

Bảng 3.1: Thống kê số đơn chỉ dẫn địa lý đã nộp từ năm 2000 - 2008


Năm

Người nộp đơn Việt Nam

Người nộp đơn nước ngoài

Tổng số

2000

2


2

2001

1

1

2

2002

2


2

2003

12


12

2004

3


3

2005

2


2

2006

5

1

6

2007

3

1

4

2008

8


8

Tổng số

38

3

41

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý theo pháp luật Việt Nam - Ninh Thị Thanh Thủy - 14


Tuy nhiên, đến tháng 9 năm 2009 mới chỉ có 16 tên gọi xuất xứ hàng hóa/chỉ dẫn địa lý được quyết định đăng bạ tại Việt Nam trong đó có 14 tên gọi xuất xứ/chỉ dẫn địa lý trong nước gồm: nước mắm Phú Quốc, chè Shan Tuyết Mộc Châu (năm 2001), cà phê Buôn Ma Thuột (năm 2005), bưởi Đoan Hùng (năm 2006), thanh long Bình Thuận, nước mắm Phan Thiết, gạo tám Hải Hậu, vải thiều Thanh Hà, hồi Lạng Sơn, cam Vinh, chè Tân Cương (năm 2007), vải thiều Lục Ngạn (năm 2008), xoài cát Hòa Lộc (năm 2009) và 2 tên gọi xuất xứ hàng hóa nước ngoài đó là rượu Cognac của Pháp (năm 2002) và rượu PISCO của Pêru.

Có rất nhiều hồ sơ chỉ dẫn địa lý đang được xem xét trong đó thậm chí có những hồ sơ đã nộp từ năm 2002. Sở dĩ thời gian xem xét hồ sơ lâu như vậy là do việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý khá phức tạp, đòi hỏi đơn vị nộp hồ sơ phải qua nhiều khảo sát, đánh giá mới xác định được đặc trưng của sản phẩm. Có một số đơn xin đăng ký tên gọi xuất xứ hàng hóa/chỉ dẫn địa lý chưa được Cục Sở hữu trí tuệ chấp nhận là đơn hợp lệ do các đơn này không đáp ứng được yêu cầu về mặt hình thức ví dụ như đơn đăng ký cho chỉ dẫn địa lý Diêm Điền cho sản phẩm nước mắm của Công ty hải sản Thái Bình nộp năm 2002; quýt hồng Lai Vung của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Đồng Tháp; chè đắng Cao Bằng của Công ty chè đắng Cao Bằng, v.vMột trong những thiếu sót lớn nhất của các đơn này đó là bản mô tả tính chất, chất lượng hay danh tiếng của sản phẩm không thể hiện được đầy đủ thông tin yêu cầu. Đặc biệt các bản mô tả này chưa phân tích, chứng minh được các điều kiện địa lý tạo nên danh tiếng, tính chất, chất lượng đặc thù của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý, không có hoặc thiếu thông tin về việc kiểm tra chất lượng của sản phẩm. Có đơn thì bản đồ xác định, khoanh vùng chỉ dẫn địa lý không đáp ứng được các quy định của pháp luật.

Ngoài ra, còn có một số chỉ dẫn địa lý được bảo hộ dưới danh nghĩa nhãn hiệu tập thể, sau đây là một số ví dụ điển hình:

Formatted Table


Bảng 3.2: Một số chỉ dẫn địa lý được bảo hộ dưới danh nghĩa nhãn hiệu tập thể


TT

Số ĐK

Ngày cấp

Nhãn hiệu

Sản phẩm

Chủ sở hữu

1

53737

13/4/2004

Cái Mơn

Cây ăn trái

Hợp tác xã dịch vụ sản xuất kinh doanh cây giống Cái Mơn xã Vĩnh Thành

2

64582

08/07/2005

Vĩnh Kim

Vú sữa

Hội làm vườn huyện Châu Thành

3

66968

30/9/2005

Mỹ Thạnh An

Bưởi da xanh

Hợp tác xã nông nghiệp bưởi da xanh Mỹ Thạnh An

4

75669

02/10/2006

Chợ Gạo

Thanh long

Hội làm vườn huyện Chợ Gạo

5

77326,

27/11/2006

Gò Công

Sơ ri

Hội làm vườn huyện Gò Công


77327




Đông

6

77988

28/12/2006

Hòa Lộc

Xoài cát

Hợp tác xã Hòa Lộc

7

79197

06/02/2007

Chợ Gạo

Nếp bè

Hội làm vườn huyện Chợ Gạo

8

79199

06/02/2007

Ngũ Hiệp

Sầu riêng

Hội làm vườn huyện Cai Lậy


Như vậy, cho đến thời điểm này và có thể trong một thời gian ngắn sắp tới không có nhiều sản phẩm của Việt Nam được đăng ký chỉ dẫn địa lý. Có thể thấy thực tế số lượng chỉ dẫn địa lý đã đăng bạ so với tiềm năng các sản phẩm có thể được bảo hộ chỉ dẫn địa lý là quá ít.

Thực trạng này còn tồn tại là do một số nguyên nhân cơ bản sau:

Thứ nhất, nhận thức chưa đầy đủ về vai trò, ý nghĩa của việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý của các chủ thể có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý cũng như các cơ quan quản lý nhà nước, nơi có chỉ dẫn địa lý. Bên cạnh đó, niềm tin vào hiệu quả mà việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý mang lại cũng chưa cao do trên thực tế, các hành vi giả mạo chỉ dẫn địa lý chưa bị ngăn chặn một cách có hiệu quả. Điều này thể hiện rất rõ trong việc hình thành Hiệp hội các nhà sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Thực tế, việc thành lập Hiệp hội này rất khó khăn do thái độ hợp tác không tích cực, thậm chí còn cạnh tranh không lành mạnh của các nhà sản xuất trong vùng.


Thứ hai, khó khăn trong việc hoàn thiện hồ sơ đăng ký chỉ dẫn địa lý và cơ chế quản lý chỉ dẫn địa lý. Một trong những yêu cầu của việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý là phải tìm ra mối liên hệ giữa điều kiện địa lý tự nhiên với tính chất, chất lượng đặc thù, danh tiếng, uy tín của sản phẩm. Công việc này đòi hỏi chi phí tốn kém về thời gian và tài chính, nhất là một số yếu tố của sản phẩm phải được đánh giá bằng kết quả phân tích ở các phòng thí nghiệm. Hồ sơ đăng ký chỉ dẫn địa lý phải mô tả các tính chất đặc thù của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý kèm theo tài liệu thể hiện kết quả nghiên cứu, khảo sát thực tế về những tính chất đặc thù đó. Việc nghiên cứu những tính chất đặc thù gì, cơ quan chuyên môn nào sẽ thực hiện việc đó, bằng phương pháp, thiết bị nào là những vấn đề gây nhiều lúng túng không chỉ cho người nộp đơn mà cho cả cơ quan đăng ký. Chẳng hạn như với chỉ dẫn địa lý cho vải thiều Thanh Hà, các cơ quan chuyên môn và Sở khoa học công nghệ tỉnh Hải Dương đã phải mất gần 02 năm để tiến hành các phân tích, khảo sát và hoàn thiện hồ sơ pháp lý để yêu cầu xác lập quyền sở hữu công nghiệp cho chỉ dẫn địa lý này. Bởi vậy, một cá nhân riêng lẻ không thể làm được các công việc này.

Thứ ba, chúng ta đang thiếu một chính sách tổng thể tầm quốc gia về chỉ dẫn địa lý. Hiện nay, chúng ta chưa xây dựng được một chính sách đầy đủ, bao quát được các vấn đề như: quy hoạch, tài chính, hỗ trợ về kỹ thuật, luật pháp, quy chế phối hợp của các cơ quan có thẩm quyền [36, tr. 22]. Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế đáng kể quá trình đăng ký chỉ dẫn địa lý.

Đến nay, các cơ quan liên quan của Việt Nam vẫn đang tiến hành xây dựng các phương pháp, cách thức tiến hành việc thẩm định các tiêu chuẩn bảo hộ chỉ dẫn địa lý, xây dựng các quy định về trình tự và thủ tục, sắp xếp hệ thống tổ chức, nâng cấp các phương tiện kỹ thuật, quy định cụ thể các biện pháp chế tài nhằm kiểm soát chất lượng hàng hóa và chống hàng giả. Các cơ quan Chính phủ Việt Nam cũng đang giúp đỡ cộng đồng sản xuất tại các vùng, các tổ chức hội, kinh doanh các sản phẩm chỉ dẫn địa lý triển khai nhiều


cuộc hội thảo, đào tạo, nâng cao nhận thức. Từ đó, giúp nhà sản xuất tham gia chủ động vào việc thực hiện các tiêu chuẩn, quy định về sản phẩm, tự bảo vệ danh tiếng của sản phẩm, hình thành một cơ chế kiểm soát của cộng đồng những người sản xuất để bảo vệ và phát triển sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 68V/2005/QĐ-TTg công bố chương trình hỗ trợ doanh nghiệp phát triển tài sản trí tuệ, trong đó có nội dung hỗ trợ việc tạo dựng, duy trì và phát triển sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Tuy nhiên, đây là vấn đề rất phức tạp và khó khăn kể từ việc nâng cao nhận thức cho công chúng hiểu về lợi ích của việc sản xuất các sản phẩm truyền thống, tổ chức hoạt động của các làng nghề, hiệp hội cũng như hướng dẫn xây dựng các quy trình sản xuất có áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, xây dựng hệ thống quản lý chất lượng, hệ thống kiểm tra chất lượng nội bộ, hệ thống bảo quản sản phẩm, marketing quảng bá sản phẩm, hệ thống tiêu thụ, hệ thống thu thập ý kiến khách hàng... Để làm được việc này, các cơ quan có chức năng quản lý, các cơ sở nghiên cứu khoa học phải thực sự vào cuộc và trở thành người bạn, người đồng hành, người truyền bá, hướng dẫn hay đúng hơn là nhà nước phải có trách nhiệm, vai trò chính thúc đẩy hoạt động này.

3.1.2. Thực trạng khai thác, quản lý và sử dụng chỉ dẫn địa lý

Với lợi thế có nhiều sản phẩm nổi tiếng như gạo Tám Hải Hậu, chè Shan tuyết Mộc Châu, tiêu Phú Quốc, việc được công nhận là sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý rất quan trọng. Tuy nhiên, công nhận chỉ dẫn địa lý là việc khó, nhưng quản lý như thế nào để sản phẩm đó duy trì được chất lượng ngay trong số những người trong vùng hoặc các đơn vị sản xuất lại còn khó hơn.

Việc đăng ký chỉ dẫn địa lý ngoài việc tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng, quản lý khai thác chỉ dẫn địa lý và chống lại hàng hóa giả mạo chỉ dẫn địa lý, còn có ý nghĩa quan trọng trong hợp tác quốc tế về bảo hộ chỉ dẫn địa lý - trong tương lai, một số nước sẽ cùng Việt Nam ký kết các điều ước quốc tế song phương, đa phương về công nhận và bảo hộ chỉ dẫn địa lý của nhau.


Cho đến nay, các hạng mục công việc thuộc Chương trình Hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp (được phê duyệt theo Quyết định số 68/2005/QĐ-TTg ngày 04/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ) tiếp tục được triển khai khẩn trương, đúng trình tự và thủ tục quy định. Trên thực tế, Cục Sở hữu trí tuệ đã có nhiều hoạt động hỗ trợ, tư vấn cho việc quản lý và sử dụng các chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ cũng như đang chuẩn bị hồ sơ xin đăng ký như việc hỗ trợ các địa phương triển khai các hoạt động chuẩn bị và triển khai dự án xây dựng và quản lý chỉ dẫn địa lý: "Yên Châu" cho sản phẩm xoài quả (Sơn La), "Nga Sơn" cho sản phẩm cói (Thanh Hóa), "Trà My" cho sản phẩm quế (Quảng Nam), "Buôn Ma Thuột" cho sản phẩm cà phê (Đắk Lắk), "Trùng Khánh" cho sản phẩm hạt dẻ (Cao Bằng), "Lục Ngạn" cho sản phẩm vải quả (Bắc Giang), "Lạng Sơn" cho sản phẩm hoa hồi (Lạng Sơn), "Đoan Hùng" cho sản phẩm bưởi quả (Phú Thọ), "Vinh" cho sản phẩm cam quả (Nghệ An)Các hoạt động thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn thủ tục tham gia Chương trình cũng được thực hiện dưới nhiều hình thức: qua trang web của Chương trình; tổ chức các hội thảo khoa học giới thiệu về Chương trình và tạo diễn đàn trao đổi, học tập kinh nghiệm (đã tổ chức Hội thảo Xây dựng và quản lý chỉ dẫn địa lý tại Thành phố Buôn Ma Thuột cho 260 đại biểu từ 39 Sở Khoa học và Công nghệ trong cả nước, các cơ quan nghiên cứu, các Hội, Hội nghề nghiệp, doanh nghiệp); phát hành 02 cuốn sách về xây dựng và quản lý chỉ dẫn địa lý.

Tính đến hết tháng 6 năm 2009, Cục Sở hữu trí tuệ đã khảo sát, thống kê được 719 địa danh với 963 đặc sản. Đến nay có 29 đặc sản nổi tiếng của các địa phương trong cả nước đã và đang được hỗ trợ xác lập quyền sở hữu trí tuệ, gồm: bưởi Đoan Hùng, hồi Lạng Sơn, nho Ninh Thuận, cà phê Buôn Ma Thuột, sâm Ngọc Linh, cói Nga Sơn, vải thiều Lục Ngạn, thanh long Bình Thuận, nón lá Huế, hoa Đà Lạt, đá mỹ nghệ Non Nước, tỏi Lý Sơn, hồ tiêu Chư Sê...

Xuất phát từ tính đặc thù của việc sử dụng, khai thác chỉ dẫn địa lý cũng như yêu cầu xây dựng, bảo vệ và phát triển một đối tượng sở hữu trí tuệ


chung của cả cộng đồng vùng địa lý, vai trò của Hiệp hội ngày càng cần thiết. Tuy vậy, nhiều Hiệp hội chưa thật sự phát huy được vai trò của mình.

Thực tiễn tại Việt Nam cho thấy một số chỉ dẫn địa lý đã được đăng bạ nhưng chưa có tổ chức tập thể của các hộ sản xuất, kinh doanh các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Do đó, việc tiến hành thủ tục yêu cầu đăng bạ chỉ dẫn địa lý do Cơ quan quản lý nhà nước đảm nhiệm (cà phê Buôn Ma Thuột - ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk, nước mắm Phan Thiết - Chi cục TCĐLCL tỉnh Bình Thuận, cam Vinh - Sở KHCN Nghệ An, chè Tân Cương - ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên) hoặc một doanh nghiệp (Chè Shan tuyết Mộc Châu - Cty Chè Mộc Châu)...

Do tổ chức tập thể các nhà sản xuất, kinh doanh sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý chưa được thành lập nên hoạt động quản lý việc sử dụng và phát triển chỉ dẫn địa lý gặp nhiều khó khăn như hoạt động sản xuất, kinh doanh sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý chưa được thực hiện theo một quy trình chuẩn chung. Bởi vậy chưa có cơ chế đảm bảo chất lượng đồng đều cho sản phẩm; các kênh thương mại cho sản phẩm chưa được thiết lập, các hoạt động quảng bá sản phẩm chưa được triển khai nên chưa tạo ra sự khác biệt về giá trị kinh tế của sản phẩm trước và sau khi chỉ dẫn địa lý được đăng bạ.

Bên cạnh đó, một số địa phương, tổ chức tập thể đã được thành lập nhưng chưa thực sự tham gia vào quá trình xây dựng, quản lý chỉ dẫn địa lý như Hiệp hội thanh long Bình Thuận, được thành lập năm 2003 - trước khi tên gọi xuất xứ "Bình Thuận" được đăng bạ (ngày 30/5/2007). Tuy nhiên, kể từ khi được đăng bạ đến nay, vai trò của Hiệp hội trong việc quản lý chỉ dẫn địa lý chưa được phát huy một phần là do cơ chế quản lý nội bộ việc sử dụng chỉ dẫn địa lý Bình Thuận chưa được xây dựng và vận hành.

Hội sản xuất nước mắm Phú Quốc là đơn vị đứng tên đăng ký chỉ dẫn địa lý "Phú Quốc". Hội đã tổ chức cho các thành viên tham gia khá nhiều hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước nhằm giới thiệu, quảng bá sản phẩm tới người tiêu dùng. Tuy nhiên, trong hoạt động quản lý chỉ dẫn địa lý, vai trò của

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 22/11/2022