Biện Pháp Hành Chính, Hình Sự Và Kiểm Soát Hàng Hóa Xuất, Nhập Khẩu Qua Biên Giới

xâm phạm phải ngừng lại, không được tiếp tục thực hiện hành vi đó hoặc phải thực hiện một số hành vi nhất định nhằm ngăn chặn những thiệt hại có thể xảy ra do hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu đối với người có nhãn hiệu được bảo hộ. Đây là một biện pháp hết sức quan trọng. Nó có tác dụng chấm dứt triệt để hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu, nhờ đó quyền độc quyền khai thác, sử dụng nhãn hiệu hàng hóa của chủ sở hữu nhãn hiệu được bảo vệ, thiệt hại của chủ sở hữu được hạn chế ở mức thấp nhất. Thực tế ta thấy, việc sử dụng trái phép nhãn hiệu hàng hóa mang lại cho người vi phạm một khoản lợi nhuận không nhỏ, đồng thời là những thiệt hại không chỉ cho chủ sở hữu nhãn hiệu mà cả phía người tiêu dùng về lợi ích, tính mạng, sức khỏe..., do vậy, việc áp dụng biện pháp này là hết sức cần thiết và thường được áp dụng với những hành vi vi phạm quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hóa khi chủ sở hữu nhãn hiệu có yêu cầu và trong trường hợp tòa án thấy cần thiết.

+ Buộc xin lỗi, cải chính công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng

Buộc xin lỗi, cải chính công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng là một biện pháp bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hóa do tòa án áp dụng đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu gây ra thiệt hại về uy tín của chủ sở hữu hoặc người có quyền sử dụng hợp pháp nhãn hiệu. Theo đó, những người này phải đưa ra thông tin nhằm sửa chữa lại cho đúng sự thật, khôi phục lại uy tín cho người bị xâm hại trên phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình...để cho mọi người biết.

Đây là một biện pháp rất cần thiết bởi trên thực tế hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu đã dẫn tới những đánh giá sai lệch của xã hội đối với sản phẩm của nhà sản xuất và chính bản thân nhà sản xuất là chủ nhãn hiệu hàng hóa đó. Vì vậy, tòa án cần buộc người đã thực hiện hành vi xâm phạm phải thực hiện các biện pháp cần thiết để làm cho đánh giá của xã hội đối với nhãn hiệu hàng hóa đó, uy tín, chất lượng của sản phẩm mang nhãn hiệu đó

cũng như đối với chủ sở hữu của nó trở nên phù hợp với thực tế khách quan ban đầu khi nó chưa bị xâm phạm.

+ Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự

Khi tiến hành các hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu nổi tiếng, bên vi phạm sẽ phải gánh chịu những hậu quả nhất định về nghĩa vụ dân sự. Nếu nghĩa vụ dân sự ấy không được bên vi phạm tự nguyện thực hiện thì chủ thể quyền thông qua tòa án có thể yêu cầu bên vi phạm buộc phải thực hiện nghĩa vụ dân sự đó.

+ Buộc bồi thường thiệt hại

Trong bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu, bồi thường thiệt hại được xem là hình thức trách nhiệm dân sự do tòa án dân sự áp dụng, buộc bên có hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù những tổn thất về vật chất và uy tín cho bên bị thiệt hại.

+ Buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

- Nguyên tắc và căn cứ bồi thường thiệt hại

Có thể coi bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu có tính thiết thực mang lại hiệu quả lớn nhất trong việc đạt được mục tiêu của bảo vệ nhãn hiệu hàng hóa. Điều này được thể hiện trên hai phương diện: Thứ nhất, đối với chủ sở hữu nhãn hiệu, biện pháp này sẽ giúp họ có thể bù đắp lại những tổn thất mà họ đã phải gánh chịu do hành vi xâm phạm sở hữu nhãn hiệu gây ra. Thứ hai, đối với người đã thực hiện hành vi xâm phạm sở hữu nhãn hiệu thì bồi thường thiệt hại là một biện pháp tác động theo hướng bất lợi tới tài sản của họ. Trong bồi thường thiệt hại, quan trọng là xác định thiệt hại và mức bồi thiệt hại

Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của pháp luật Việt Nam - 12

Điều 204 Luật SHTT năm 2005 qui định nguyên tắc xác định thiệt hại. Thiệt hại được xác định bao gồm cả thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại về vật chất bao gồm các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổ thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chăn, khắc phục thiệt hại. Thiệt hại về tinh thần bao gồm các tổ thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh tiếng. Mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở các tổn thất thực tế mà chủ thể quyền sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng phải chịu do hành vi xâm phạm gây ra.

Toà án quyết định mức bồi thường thiệt hại vật chất theo một trong các căn cứ sau đây:

- Tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất;

- Giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ với giả định bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng đối tượng đó theo hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ trong phạm vi tương ứng với hành vi xâm phạm đã thực hiện;

- Trong trường hợp không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo các căn cứ quy định tại điểm a và điểm b khoản này thì mức bồi thường thiệt hại về vật chất do Toà án ấn định, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng không quá năm trăm triệu đồng.

Nguyên đơn sẽ chứng minh các thiệt hại về tinh thần, Tòa án quyết định mức bồi thường tinh thần từ 5 triệu đến 50 triệu đồng tùy mức mức độ thiệt hại (Điều 205 Luật SHTT). Về vấn đề bồi thường thiệt hại được qui định tại Thông tư số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTTDL-BKHCN-

BTP ngày 3/4/2008 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ văn hóa, thể thao và du lịch, Bộ khoa học và công nghệ, Bộ tư pháp hướng dẫn việc bồi thường thiệt hại tại mục B.I (Thông tư liên tịch 02)

- Nghĩa vụ chứng minh của đương sự

Chủ thể có quyền khởi kiện bằng cách gửi đơn khởi kiện đến tòa án kèm theo các tài liệu, chứng cứ khác khẳng định quyền hợp pháp đối với nhãn hiệu của mình và các chứng cứ về hành vi xâm phạm của người bị kiện (bao gồm cả kết luận chính thức của Cục sở hữu trí tuệ về nhãn hiệu hàng hóa vi phạm) cũng như các chứng cứ về thiệt hại mà người thiệt hại phải gánh chịu do hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng gây ra.

Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của người khởi kiện phụ thuộc vào chính yêu cầu ban đầu của họ. Nếu trong trường hợp chủ sở hữu nhãn hiệu chỉ khởi kiện yêu cầu tòa án buộc chấm dứt hành vi vi phạm thì nội dung chứng minh của họ tương đối đơn giản. Họ chỉ cần chứng minh rằng người bị kiện trên thực tế đang có hành vi sử dụng bất hợp pháp nhãn hiệu mà họ là chủ sở hữu hoặc là người có quyền sử dụng hợp pháp. Tuy nhiên, nếu trong trường hợp chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng khởi kiện yêu cầu tòa án buộc người xâm phạm phải bồi thường thiệt hại thì nội dung mà họ phải chứng minh sẽ phức tạp hơn.

- Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Để bảo đảm cho việc xử lý kịp thời, có hiệu quả các vụ xâm phạm quyền dân sự, các biện pháp khẩn cấp tạm thời thường xuyên được áp dụng. Việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời được qui định tại Chương VIII Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2004. Đây chính là qui định chung cho các vụ việc dân sự. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của SHTT nên các qui định tại Chương VIII Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2004 chưa đáp ứng được một số yêu

cầu của Hiệp định TRIPS và BTA liên quan đến việc áp dụng biện pháp

khẩn cấp tạm thời. Luật SHTT đã khắc phục thiếu sót này bằng việc qui định cụ thể các điều kiện để chủ thể nắm giữ quyền SHTT có quyền yêu cầu tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Điều 206 Luật SHTT năm 2005. Đây là qui định cần thiết nhằm tránh tình tạng chủ thể quyền lạm dụng quyền

yêu cầu gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này cũng qui định việc yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được thực hiện đồng thời với việc khởi kiện hoặc sau khi đã khởi kiện tại tòa án. Qui định này phù hợp với qui định tại Điều 99 khoản 2 Bộ luật Tố tụng Dân sự: Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền nộp đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 của Bộ luật này đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Toà án đó. Tuy nhiên, qui định này, lại chưa đáp ứng được yêu cầu được nêu tại Điều 50 khoản 6 của Hiệp định TRIPS và Điều 13 khoản 6 của BTA. Nếu theo qui định của Bộ luật tố tụng Dân sự thì người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải tiến hành yêu cầu đó đồng thời với việc khởi kiện tại tòa án, qui định này tỏ ra cứng nhắc và không phù hợp với thực tế, không đảm bảo quyền tự quyết của các chủ thể quyền, nhất là trong trường hợp họ chỉ có yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để thu thập các chứng cứ hoặc để bảo toàn các chứng cứ về việc xâm phạm quyền, trên cơ sở đó yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý về hành chính mà không yêu cầu xử lý dân sự hoặc hình sự.

Đồng thời với việc qui định quyền được yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Luật SHTT cũng qui định nghĩa vụ của người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để ngăn chặn việc sử dụng quyền này một cách không lành mạnh, gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nâng cao trách nhiệm của chủ thể quyền. Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ chứng minh việc yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là có căn cứ, bồi thường thiệt hại nếu yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba. Ngoài ra, tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện kiểm sát áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khi xét thấy cần thiết.

Việc hủy bỏ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện trong các trường hợp qui định tại Điều 122 khoản 1 của Bộ luật Tố tụng Dân sự và Luật SHTT có bổ sung thêm trường hợp người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chứng minh được việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là không có căn cứ xác đáng. Trong trường hợp này thì tòa án cũng phải ra quyết định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng nhằm đảm bảo quyền lợi của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này cũng là phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Qui định xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHTT bằng biện pháp dân sự trong Luật SHTT là một biện pháp thiết thực và hiệu quả đối với chủ sở hữu quyền SHCN nói chung và quyền SHCN đối với nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng bởi mục đích trước tiên mà biện pháp này hướng tới là ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm và bù đắp, khôi phục các thiệt hại mà chủ sở hữu hoặc người sử dụng hợp pháp phải gánh chịu. Đồng thời việc áp dụng biện pháp dân sự đã nâng cao vai trò của hệ thống cơ quan tư pháp, giảm bớt sự can thiệp của cơ quan hành chính nhà nước vào các vấn đề mang tính dân sự. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta chưa có tòa án chuyên trách việc xét xử các vụ án về tranh chấp và xâm phạm quyền SHTT tại Việt Nam

2.5.2.2. Biện pháp hành chính, hình sự và kiểm soát hàng hóa xuất, nhập khẩu qua biên giới

- Biện pháp hành chính

Biện pháp hành chính là biện pháp do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng để xử lý những hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng những chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, là một trong các cách thức chủ sở hữu nhãn hiệu có thể dùng để thực hiện quyền chủ thể của mình. Bảo vệ quyền SHCN đối với nhãn hiệu bằng biện pháp hành chính thường được chủ sở hữu nhãn hiệu lựa chọn, yêu cầu sử dụng do tính nhanh chóng, tức thời, hiệu quả ngăn chặn hành vi xâm phạm của nó mặc dù mức

bồi thường thiệt hại của nó thấp (không quá 1 triệu đồng). Nguyên tắc cơ bản của việc xử lý vi phạm hành chính tuân theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 2/7/2002 (sửa đổi, bổ sung ngày 2/4/2008), Nghị định 106/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ qui định xử phạt vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp.

Điều 211 Luật SHTT sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử phạt vi phạm hành chính:

+ Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho tác giả, chủ sở hữu, người tiêu dùng hoặc cho xã hội;

+ Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 213 của Luật này hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này;

+ Sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ tem, nhãn hoặc

vật phẩm khác mang nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý giả mao người khác thực hiện hành vi này.

hoặc giao cho

Khi một hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu bị xử phạt vi phạm hành chính xảy ra, cơ quan nhà nước sẽ yêu cầu chủ thể vi phạm buộc phải chấm dứt hành vi xâm phạm và buộc áp dụng một trong các hình thức xử phạt hành chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền.

Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện.

Khi hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng bị xử lý bằng hình thức phạt tiền thì người có thẩm quyền sẽ ra quyết định xử phạt. Mức phạt tiền trong trường hợp vi phạm này sẽ được xử lý theo qui định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 ấn định mức phạt tiền trong các trường hợp vi phạm hành chính ít nhất bằng giá trị hàng

hóa vi phạm đã phát hiện được và nhiều nhất không vượt quá năm lần giá trị hàng hóa vi phạm đã phát hiện được. Qui định này trên thực tế không phù hợp và khó có tính khả thi bởi mức phạt trong nhiều trường hợp có thể quá cao hoặc quá thấp so với hành vi vi phạm. Ví dụ, trong trường hợp giá trị hàng hóa xâm phạm rất thấp do hàng hóa kém chất lượng, không có giá trị sử dụng có nghĩa là hành vi vi phạm càng nghiêm trọng nhưng luật lại xác định mức phạt chỉ bằng giá trị hàng hóa vi phạm nên không có giá trị răn đe. Ngược lại, hàng hóa xâm phạm có giá trị lớn do bản thân hàng hóa có giá trị cao, chất lượng không thua kém hàng thật, vì vậy mà yếu tố vi phạm ít nghiêm trọng hơn nhưng mức phạt lại quá lớn dẫn đến không khả thi. Thêm vào đó, việc xác định thẩm quyền xử phạt trong nhiều trường hợp sẽ gặp những khó khăn vì theo qui định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính chỉ có thanh tra chuyên ngành mới có thẩm quyền phạt vượt khung 500 triệu. Điều đó dẫn tới tình trạng một là người có thẩm quyền xử phạt sẽ cố ý phạt ở mức thấp trong thẩm quyền của mình hoặc những vụ việc như vậy sẽ được dồn về Trung ương gây ra sự quá tải cho các cơ quan này. Qui định của Luật SHTT sửa đổi bổ sung năm 2009 và Nghị định 97/2010/NĐ-CP ngày 22/9/2010 của Chính phủ về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực SHCN, có hiệu lực từ ngày 9/11/2010 đã giúp cho hoạt động xử phạt mang tính khả thi và phù hợp với thực tế hơn. Theo đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước hết sẽ căn cứ vào các qui này để ra ấn định mức phạt phù hợp với hành vi vi phạm. Bên cạnh đó, tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm, người xâm phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung như: tịch thu hàng hóa xâm phạm, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa xâm phạm quyền; đình chỉ hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm trong một thời hạn nhất định...

Để bảo đảm cho việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu nổi tiếng bằng biện pháp hành chính đạt hiệu quả, Luật Sở hữu trí tuệ cho phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn

Xem tất cả 126 trang.

Ngày đăng: 22/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí