Trên cơ sở chức năng của nhãn hiệu, Luật mẫu của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới về Nhãn hiệu, Tên thương mại và Cạnh tranh không lành mạnh năm 1967, đã đưa ra một định nghĩa như sau: “Nhãn hiệu là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt với hàng hoá của một doanh nghiệp này với đối thủ cạnh tranh”.
Trong thực tế kinh doanh, không chỉ có các nhà sản xuất đưa hàng hoá ra thị trường mà còn có cả các nhà cung cấp dịch vụ cũng cung cấp dịch vụ ra thị trường. Vì vậy, tất yếu đòi hỏi cũng phải có dấu hiệu để người tiêu dùng có thể phân biệt được dịch vụ của các nhà cung cấp dịch vụ với nhau. Những dấu hiệu được sử dụng trong trường hợp này được gọi là nhãn hiệu dịch vụ. Nhãn hiệu dịch vụ, về bản chất, cũng giống như nhãn hiệu hàng hoá. Do đó, khái niệm nhãn hiệu hiện nay theo các điều ước quốc tế về nhãn hiệu và pháp luật của nhiều nước được quy định với hàm nghĩa bao gồm cả nhãn hiệu hàng hoá và nhãn hiệu dịch vụ. Điều này được khẳng định trong điều 15 Hiệp định TRIPS: “Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu” [17].
Theo các định nghĩa nêu trên, dấu hiệu có thể sử dụng làm nhãn hiệu là những dấu hiệu bất kỳ, miễn là dấu hiệu đó có khả năng phân biệt. Như vậy, về mặt lý luận, các dấu hiệu thuộc dạng nhìn thấy được và thuộc dạng không thể nhìn thấy được như mùi vị hoặc âm thanh đều có thể trở thành nhãn hiệu. Việc thừa nhận dấu hiệu thuộc dạng nào có thể sử dụng làm nhãn hiệu, vì thế, tuỳ thuộc vào điều kiện thực tiễn của mỗi quốc gia. Phần lớn các quốc gia chỉ cho phép đăng ký các dấu hiệu thể hiện dưới dạng đồ hoạ (nhìn thấy được), bởi các nhãn hiệu thuộc dạng này mới có thể ghi được trong sổ danh bạ quốc gia, và công bố một cách hữu hình trong công báo nhãn hiệu quốc gia, để công bố công khai cho công chúng về việc đăng ký nhãn hiệu. Về vấn đề này, điều 15.1 Hiệp định TRIPS quy định “... Các thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký là các dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được”. Hiệp ước Luật nhãn hiệu cũng chỉ thừa nhận sự bảo hộ đối với các dấu hiệu nhìn thấy được, không thừa nhận sự bảo hộ đối với các nhãn hiệu vô hình, cụ thể là nhãn hiệu âm thanh và nhãn hiệu mùi vị [41, điều 2]. Như vậy, mặc
dù không phản đối việc đăng ký dấu hiệu không thể nhìn thấy được, nhưng xu hướng chung của các nước là chỉ thừa nhận việc đăng ký dấu hiệu có thể nhìn thấy được là nhãn hiệu.
Một dấu hiệu được coi là đáp ứng tiêu chuẩn phân biệt hay còn được gọi là tiêu chuẩn bảo hộ phải thoả mãn hai điều kiện sau:
Điều kiện thứ nhất là dấu hiệu phải có khả năng cá thể hoá hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp này, để từ đó phân biệt với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác. Điều kiện này, đòi hỏi dấu hiệu đó không tạo ra sự liên tưởng đến hàng hoá hoặc dịch vụ mà dấu hiệu này được sử dụng. Nếu dấu hiệu này tạo ra sự liên tưởng đến hàng hoá hoặc dịch vụ mà nó ám chỉ, điều đó có nghĩa là có sự đồng nhất giữa dấu hiệu và hàng hoá hoặc dịch vụ, do đó, chức năng phân biệt bị triệt tiêu. Điều kiện này là cơ sở để xác định các trường hợp loại trừ khỏi tư cách là nhãn hiệu.
Điều kiện thứ hai liên quan tới hậu quả mà nhãn hiệu có thể gây ra nếu việc sử dụng nhãn hiệu có thể gây nhầm lẫn, hiểu lầm với nhãn hiệu của người khác hoặc vi phạm trật tự công cộng và đạo đức xã hội. Điều kiện này chính là cơ sở cho việc xây dựng tiêu chí xác định khả năng tương tự gây nhầm lẫn của nhãn hiệu.
1.2. Khái niệm chung về bảo hộ nhãn hiệu
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo hộ nhãn hiệu trong pháp luật Việt Nam và pháp luật của Liên minh Châu Âu - 1
- Bảo hộ nhãn hiệu trong pháp luật Việt Nam và pháp luật của Liên minh Châu Âu - 2
- Khái Niệm Nhãn Hiệu Theo Pháp Luật Liên Minh Châu Âu
- Đặc Trưng Của Pháp Luật Liên Minh Châu Âu Về Bảo Hộ Nhãn Hiệu
- Lợi Ích Và Bất Lợi Của Việc Nộp Đơn Nhãn Hiệu Cộng Đồng
Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.
Thuật ngữ bảo hộ nói chung, thông thường được hiểu đó là các cách thức, biện pháp, cơ chế và chính sánh bao gồm cả các chế tài để ngăn ngừa và chống lại sự xâm phạm các đối tượng - các quan hệ xã hội được bảo hộ. Bởi vậy, thuật ngữ bảo hộ luôn được hiểu và gắn liền với sự bảo hộ của nhà nước thông qua các quy định của pháp luật. Các quy định của pháp luật có thể là các chế định pháp luật, các nguyên tắc pháp luật và các chính sách pháp luật. Do sự khác nhau về bản chất và đặc điểm của đối tượng được bảo hộ mà các quy định pháp luật cho sự bảo hộ của mỗi đối tượng cũng khác nhau về nội dung và phạm vi của sự bảo hộ.
Sự ra đời của nhãn hiệu không phải là một hiện tượng mang tính ngẫu nhiên hay theo sự sắp đặt chủ quan của một tổ chức nào đó. Như đã trình bầy ở trên, sự ra
đời của nhãn hiệu, là một tất yếu của nền sản xuất hàng hoá với mục đích để phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của cơ sở này với hàng hoá hoặc dịch vụ của cơ sở khác. Do đó, như một đòi hỏi của tất yếu khách quan, cần phải có một công cụ hữu hiệu để ghi nhận một cách chính thức và công khai quyền của các nhà sản xuất, buôn bán trong việc củng cố và duy trì tính phân biệt của hàng hoá hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu trong hoạt động sản xuất và mua bán hàng hoá.
Để ghi nhận tính phân biệt của nhãn hiệu, đòi hỏi phải có quy định chống lại các hành vi gây nhầm lẫn hoặc có nguy cơ ngây nhầm lẫn như hành vi sao chép, làm giả hàng hoá mang nhãn hiệu, thậm chí là đánh cắp nhãn hiệu mà hậu quả có thể làm mất đi chức năng phân biệt của nhãn hiệu hoặc tước đoạt quyền của chủ sở hữu. Công cụ để đảm bảo được hai khía cạnh này chính là hệ thống pháp luật.
Nhãn hiệu là một loại tài sản SHTT mang tính chất “phi vật thể”. Bản chất và đặc điểm của loại tài sản này không giống như loại tài sản “hữu hình” mà bản thân chủ sở hữu có thể trực tiếp thực hiện sự chiếm hữu, sử dụng và định đoạt bằng các hành vi mang tính vật lý. Chủ sở hữu đối với nhãn hiệu không thể trực tiếp thực hiện được các quyền năng nêu trên bằng hành vi mang tính vật lý, mà phải thực hiện thông qua một cơ chế pháp lý đặc thù để ngăn chặn cũng như xử lý các nguy cơ nói trên. Cơ chế pháp lý đặc thù đó chính là cơ chế dành “độc quyền” cho chủ sở hữu. Để xác định độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu, thì cần phải xác định được chủ sở hữu đó có những quyền gì và phạm vi nội dung của quyền đó đến đâu? Bởi vậy, trong khía cạnh thứ nhất, độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu được xác định bằng các quy định pháp luật về nội dung của quyền sở hữu và phạm vi quyền sở hữu.
Vì trong lĩnh vực bảo hộ nhãn hiệu luôn tồn tại các quyền độc quyền khác nhau của các chủ sở hữu nhãn hiệu khác nhau, do đó, quyền độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu này phải tôn trọng và đảm bảo quyền độc quyền của chủ thể khác và của xã hội. Bởi vậy, theo khía cạnh khác, độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu cũng bao gồm các quy định pháp luật về giới hạn quyền trong một số trường hợp để đảm bảo tính cân bằng lợi ích của chủ thể khác và của xã hội như đã nói trên. Cơ chế bảo
hộ, vì vậy, là cơ chế dành “độc quyền tương đối” cho chủ sở hữu. Pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu của tất cả quốc gia cũng đều quy định quyền độc quyền của chủ sở hữu là quyền độc quyền tương đối. Tính tương đối còn được thể hiện ở các trường hợp chủ sở hữu không thể ngăn cấm việc người khác bán lại hàng hoá do chủ sở hữu đưa ra thị trường. Trường hợp này được gọi là học thuyết sử dụng cạn quyền. Học thuyết cạn quyền này cũng có thể đuợc áp dụng trong trường hợp nhập khẩu song song, tuỳ thuộc vào pháp luật từng nước.
Như đã trình bày ở trên, bảo hộ nhãn hiệu không chỉ bao gồm các quy định pháp luật để chủ sở hữu thực hiện được các quyền được xác định trong nội dung quyền của chủ sở hữu, mà quan trọng hơn cả là quy định ngăn cấm và xử lý các hành vi xâm phạm hoặc có nguy cơ xâm phạm quyền của chủ sở hữu do hành vi của chủ thể khác thực hiện trên thực tế, nhằm đảm bảo các quyền đó không trở thành hư quyền. Do đó, theo một khía cạnh khác nữa, độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu còn bao gồm các quy định chống xâm phạm từ các chủ thể khác.
Hành vi có nguy cơ xâm phạm độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu không chỉ bao gồm các hành vi sử dụng các nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn, mà còn bao gồm hành vi đăng ký các nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn. Do đó, bảo hộ nhãn hiệu còn bao gồm các quy định chống lại việc đăng ký các nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn của chủ thể khác thông qua các thủ tục như phản đối đơn đăng ký, yêu cầu huỷ bỏ các văn bằng bảo hộ đã cấp cho nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn. Các quy định này, xét trong mối quan hệ với chủ sở hữu nhãn hiệu, chính là căn cứ pháp lý để chủ sở hữu thực hiện quyền độc quyền, xét trong mối quan hệ với người nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu chính là căn cứ pháp lý xác lập quyền. Bởi vậy, các quy định bảo hộ nhãn hiệu, trong khía cạnh này, là một vấn đề có tính hai mặt: mặt xác lập quyền và mặt thực thi quyền.
Như một nguyên tắc chung của bất kỳ hệ thống pháp luật nào, nhãn hiệu được bảo hộ phải không xâm phạm đến trật tự công cộng và đạo đức xã hội - một nguyên tắc hiến định của tất cả các hệ thống pháp luật. Điều này đòi hỏi việc bảo hộ nhãn hiệu phải có các quy định về tiêu chuẩn bảo hộ của nhãn hiệu.
Thêm nữa, việc bảo hộ nhãn hiệu hiện nay trên thế giới là dựa vào một trong hai nguyên tắc, đó là căn cứ vào sử dụng nhãn hiệu đầu tiên và căn cứ đăng ký. Theo nguyên tắc sử dụng, một nhãn hiệu sẽ được bảo hộ nếu chủ sở hữu của nhãn hiệu chứng minh được rằng nhãn hiệu đó đã được sử dụng đầu tiên mà không đòi hỏi thủ tục đăng ký. Trong trường hợp này, phạm vi quyền của chủ sở hữu đối với nhãn hiệu sử dụng chỉ được xác định trong phán quyết của toà án thông qua các vụ tranh chấp hoặc xâm phạm. Theo nguyên tắc đăng ký, nhãn hiệu chỉ được thừa nhận bảo hộ khi nhãn hiệu được đăng ký và được cơ quan có thẩm quyền của quốc gia cấp văn bằng bảo hộ độc quyền hay Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, tuỳ theo quy định của từng quốc gia. Phạm vi quyền của chủ sở hữu được xác định trong văn bằng bảo hộ độc quyền. Do đó, pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu, đặc biệt là các điều ước quốc tế trong thời kỳ trước đây chỉ chú trọng đến các quy định về điều kiện và tiêu chuẩn xác lập quyền bảo hộ nhãn hiệu. Cụ thể điều ước quốc tế đa phương đầu tiên trong lĩnh vực bảo hộ sở hữu công nghiệp đó là Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp tiếp cận phạm trù bảo hộ nhãn hiệu theo nghĩa hẹp, chủ yếu là các quy định liên quan đến thủ tục xác lập quyền bao gồm các điều kiện và tiêu chuẩn bảo hộ nhãn hiệu; quyền ưu tiên; các trường hợp từ chối đăng ký, huỷ bỏ đăng ký hoặc cấm sử dụng nhãn hiệu.
Tuy nhiên, cho đến Hiệp định TRIPS, phạm trù bảo hộ nhãn hiệu được mở rộng hơn, không chỉ bao gồm các quy định về xác lập quyền, nội dung quyền của chủ sở hữu mà còn bao gồm cả các quy định về thực thi quyền chống lại các hành vi xâm phạm quyền của chủ sở hữu thông qua các thủ tục dân sự, hình sự, hành chính và biện pháp tạm thời.
Giống như cách tiếp cận của Hiệp định TRIPS, pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu của tất cả các quốc gia hiện nay đều áp dụng nguyên tắc bảo hộ nhãn hiệu là dành độc quyền tương đối cho chủ sở hữu nhãn hiệu. Độc quyền tương đối của chủ sở hữu nhãn hiệu bao gồm các quyền khai thác, sử dụng, cho người khác sử dụng và quan trọng hơn cả là quyền ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu đã được bảo hộ.
Do chức năng cơ bản của nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá của chủ sở hữu với hàng hoá của người khác, nên chủ sở hữu nhãn hiệu phải có quyền ngăn chặn những hàng hoá tương tự gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Phạm vi quyền ngăn chặn hành vi gây nhầm lẫn của chủ sở hữu còn bao gồm cả sự ngăn chặn hành vi tương tự gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, nên việc bảo hộ được mở rộng đến cả việc sử dụng nhãn hiệu tương tự cho hàng hoá tương tự với nhãn hiệu đã được bảo hộ của chủ sở hữu. Quyền ngăn chặn của chủ sở hữu được thực hiện theo các cấp độ khác nhau: từ thủ tục phản đối hành vi đăng ký nhãn hiệu tương tự của bên thứ ba nếu nhãn hiệu tương tự đang được cơ quan đăng ký xem xét, yêu cầu huỷ bỏ nếu nhãn hiệu tương tự đã được đăng ký, cho đến việc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý thông qua các thủ tục tiền tố tụng và thủ tục tố tụng.
Như vậy, phạm trù về “bảo hộ nhãn hiệu”, hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm ba nội dung: nội dung thứ nhất là đề cập đến trình tự và thủ tục xác lập quyền; nội dung thứ hai đề cập đến nội dung quyền của chủ sở hữu; và nội dung thứ ba là đề cập đến việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền.
Mặc dù độc quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu được xác định trong một khoảng thời gian cụ thể, thông thường pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu của hầu hết các quốc gia quy định là 10 năm, và có tính lãnh thổ triệt để [3, tr.174], tức là quyền độc quyền đó chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ mà nhãn hiệu đó được bảo hộ, nhưng việc bảo hộ nhãn hiệu của tất cả các quốc gia không chỉ bằng các quy định pháp luật trong nước, mà còn theo các điều ước quốc tế. Các điều ước quốc tế song phương và đa phương có vị trí và vai trò rất quan trọng trong bảo hộ nhãn hiệu.
Tóm lại, theo chúng tôi, có thể hiểu như sau về bảo hộ nhãn hiệu: “Bảo hộ nhãn hiệu là tập hợp hữu hạn các quy định pháp luật bao gồm các quy định pháp luật quốc gia và các điều ước quốc tế, và các nguyên tắc pháp luật quy định về căn cứ, thủ tục xác lập quyền; nội dung quyền và cơ chế thực thi quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu”.
Trong phần tiếp theo, luận văn nghiên cứu và làm rõ nội dung thứ nhất và
thứ hai của khái niệm bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, đó là các quy định của pháp luật trong thủ tục xác lập quyền và nội dung của quyền sở hữu nhãn hiệu.
1.3. Khái niệm nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam
1.3.1. Lược sử hình thành hệ thống pháp luật bảo hộ nhãn hiệu Việt Nam
Sự ra đời và hoạt động bảo hộ nhãn hiệu đã xuất hiện tại nhiều nước trên thế giới từ cách đây hàng trăm năm, nhưng đối với hệ thông pháp luật nói chung của Việt Nam, khái niệm bảo hộ nhãn hiệu chỉ bắt đầu cách đây đúng 25 năm. Văn bản mang tính pháp quy đầu tiên, đặt nền móng cho hệ thống pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu là Nghị định số 197/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng ban hành kèm theo Điều lệ về nhãn hiệu hàng hoá ngày 14/12/1982. Văn bản pháp quy này tuy là văn bản đầu tiên, nhưng quy định khá đầy đủ và toàn diện các vấn đề về bảo hộ nhãn hiệu từ tiêu chuẩn bảo hộ, hình thức bảo hộ, phạm vi bảo hộ cho đến các quy định về bảo vệ và xử lý các hành vi xâm phạm quyền của chủ sở hữu. Các quy định về bảo hộ nhãn hiệu trong văn bản pháp quy này cũng đã có cách tiếp cận khá gần với các chuẩn chung của nhiều nước trên thế giới như quy định cho sự bảo hộ nhãn hiệu cho cá nhân và pháp nhân nước ngoài theo các nguyên tắc có đi có lại và theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Trên cơ sở Nghị định này, ngày 29/6/1984 giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hoá đầu tiên được cấp, chính thức đánh dấu hoạt động bảo hộ nhãn hiệu của Việt Nam. Sự ra đời của Nghị định này, về cơ bản, đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn trong giai đoạn này. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Nghị định cũng còn những hạn chế, đó là biện pháp và chế tài xử lý các hành vi xâm phạm quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu chỉ dừng lại ở mức độ xử lý hành chính, và một phần là xử lý hình sự đối với tội sản xuất và buôn bán hàng giả theo Bộ luật hình sự năm 1985.
Kể từ năm 1986, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường hàng hoá. Hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật kinh tế và chế độ sở hữu, được sửa đổi phù hợp với quy luật phát triển của nền kinh tế. Các quy định về bảo hộ nhãn hiệu trong Nghị định số
197/HĐBT, cũng vì thế không còn phù hợp. Nhằm làm cho hoạt động sở hữu công nghiệp phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế mới, nâng cao tầm bảo hộ của nhãn hiệu, Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đã được thông qua ngày 28/01/1989 và có hiệu lực ngày 11/2/1989, thay thế cho Nghị định số 197/HĐBT. Với việc ban hành Pháp lệnh về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, các biện pháp và chế tài bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, bao gồm quyền đối với nhãn hiệu, đã được mở rộng, không chỉ giới hạn trong phạm vi hành chính, cho phép chủ sở hữu có quyền khởi kiện ra toà án đối với các hành vi xâm phạm quyền. Cùng với việc ban hành Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, ngày 20/03/1990, Hội đồng bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 84/HĐBT sửa đổi, bổ sung Điều lệ về nhãn hiệu hàng hoá nhằm thi hành pháp lệnh về sở hữu công nghiệp.
Giai đoạn đánh dấu bước chuyển quan trọng về chất trong hệ thống pháp luật bảo hộ nhãn hiệu được bắt đầu bằng sự ra đời của Bộ luật dân sự vào ngày 28/10/1995. Lần đầu tiên, bảo hộ nhãn hiệu, được ghi nhận trong một bộ luật tại chương 2, phần thứ VI với 26 điều quy định những nguyên tắc cơ bản nhằm xác lập và bảo hộ quyền. Trên cơ sở Bộ luật dân sự, ngày 24/10/1996 Chính phủ ban hành Nghị định 63/CP quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp. Nghị định này tập hợp hoá hầu hết mọi quy định về thủ tục xác lập quyền và thực thi quyền đã được đề cập tản mạn trong các văn bản pháp luật liên quan trước đó. Để hướng dẫn thi hành Nghị định 63/CP, Thông tư 3055/TT-SHCN được ban hành ngày 31/12/1996.
Sau một thời gian thi hành, Nghị định 63/CP cũng bộc lộ một số quy đinh chưa thực sự phù hợp. Chỉ riêng trong lĩnh vực bảo hộ nhãn hiệu, có một số thiếu sót như thiếu quy định về bảo hộ nhãn hiệu liên kết; thiếu quy định về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng; quy định về xâm phạm quyền nhãn hiệu là quá hẹp; không bao trùm các hành vi sử dụng nhãn hiệu tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được đăng ký; các quy định về khiếu nại chưa phù hợp với Luật Khiếu nại, tố cáo. Bởi vậy, Nghị định 06/2001/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 63/CP đã đựơc ban hành ngày 01/02/2001.
Cũng trong thời gian này, để đáp ứng các yêu cầu quy định trong Hiệp định