Hướng Dẫn, Ban Hành Quy Chế Phối Hợp Giữa Các Cơ Quan Tiến Hành Tố Tụng

Thứ tám, cần đảm bảo sự thống nhất nội hàm của khái niệm người chưa thành niên và trẻ em để hài hòa giữa luật pháp quốc tế và Việt Nam trong xu hướng hội nhập. Vì vậy, việc xác định trẻ em là người dưới 18 tuổi là cần thiết, phù hợp với Công ước quốc tế, phù hợp với quy định về quyền con người, quyền công dân trong hiến pháp 2013 và đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Việc nâng độ tuổi trẻ em lên 18 tuổi sẽ phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em, phù hợp với độ tuổi hoàn thành giáo dục bậc trung học phổ thông. Việc thống nhất hai khái niệm này là một vấn đề hết sức phức tạp vì liên quan đến nhiều lĩnh vực, chủ trương, chính sách khác nhau vì vậy cần có lộ trình, nghiên cứu kỹ lưỡng, đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật cũng như sự ảnh hưởng của nó khi thực hiện việc thống nhất hai khái niệm này. [9].

3.1.2. Hướng dẫn, ban hành quy chế phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng

Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân là sự phối hợp trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Đó là một trong những nguyên tắc do pháp luật tố tụng quy định, có sự tác động, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau, đảm bảo việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành. Phạm vi công tác phối hợp là từ khi phát hiện tội phạm đến khi kết thúc điều tra, truy tố, xét xử.

Thực tiễn hoạt động này trong thời gian qua cho thấy ở nơi nào phối hợp tốt thì ở đó đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án nhanh, chính xác, phục vụ được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm và đáp ứng được nhiệm vụ chính trị của địa phương; vụ án không bị trả hồ sơ để điều tra bổ sung; việc điều tra, truy tố, xét xử đảm bảo đúng người, đúng tội, được dư luận đồng tình.

Hoạt động phối hợp ở đây không phải là can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi cơ quan, mà đây chính là phương pháp để tháo gỡ những vướng mắc

nhằm giải quyết vụ án được nhanh chóng, hạn chế được oan sai, bỏ lọt tội phạm hoặc vi phạm thủ tục tố tụng. Thực tiến tố tụng thời gian qua đã cho thấy hiệu quả của sự phối hợp trong việc xác định án điểm, án rút gọn, xét xử lưu động hoặc thống nhất trong việc giải quyết vụ án phức tạp, có nhiều ý kiến còn khác nhau. Do vậy cần tăng cường nâng cao quan hệ phối hợp giữa ba cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án để nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng và chống tội phạm trong tình hình mới. Tác giả cho rằng, để nâng cao mối quan hệ phối hợp đó cần thiết phải ký quy chế phối hợp giữa cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án ở cả cấp Trung ương và địa phương nhằm tạo sự thống nhất về chủ trương và tạo sự thuận lợi về phối hợp. Định kỳ hàng năm cần tổng kết đánh giá kết quả cũng như hạn chế trong việc phối hợp nhằm phát huy những kết quả đạt được và bổ sung, thay thế… những bất cập, hạn chế từ quy chế phối hợp.

Ngoài ra, Bộ công an và Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần nghiên cứu để sớm ban hành văn bản hướng dẫn nghiệp vụ xử lý tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em đảm bảo kịp thời và hiệu quả.

3.2. Các giải pháp về tổ chức, hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội

3.2.1. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của Lãnh đạo Viện kiểm sát hai cấp

Nhiệm vụ bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục của Viện kiểm sát nhân dân chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở công tác tổ chức quản lý, chỉ đạo và điều hành trong thực tiễn. Hệ thống cơ quan kiểm sát được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất và do Viện trưởng lãnh đạo nên yêu cầu đặt ra là mọi hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành đều do Viện trưởng chịu trách nhiệm và thống nhất chỉ đạo thực hiện.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.

Để thực hiện nhiệm vụ công tác quản lý, chỉ đạo và điều hành phải được tiến hành đồng bộ, có lộ trình kế hoạch cụ thể, cần đề cao trách nhiệm người đứng đầu, tăng cường các biện pháp sau đây: biện pháp quản lý, chỉ đạo và điều hành bằng chính sách, chế độ, bằng các quy chế nghiệp vụ, bằng kế hoạch và công tác thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ của Viện kiểm sát cấp trên đối với Viện kiểm sát cấp dưới. Thực tiễn cho thấy, phần lớn Viện kiểm sát cấp trên khi kiểm tra nghiệp vụ Viện kiểm sát cấp dưới ít quan tâm đúng mức đến kiểm sát xét xử mà chỉ quan tâm đến công tác thực hành quyền công tố. Do vậy, vẫn tiếp tục kiện toàn và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra nghiệp vụ bằng thiết chế thanh tra của ngành, thiết chế thanh tra của ngành vừa làm nhiệm vụ kiểm tra nghiệp vụ, vừa kiểm tra chấp hành kỷ luật công vụ.

Thực tế đã cho thấy hầu hết các hạn chế, hiệu quả công tác kiểm sát xét xử chưa được như mong đợi đều có nguyên nhân phổ biến đó là công tác quản lý, chỉ đạo và điều hành của người đứng đầu. Công tác chỉ đạo, điều hành nhằm thực hiện nhiệm vụ bảo đảm quyền con người chủ yếu được tập trung ở chức năng công tố, chủ yếu để không để xảy ra hiện tượng oan, sai, bỏ lọt tội phạm và bỏ lọt hành vi phạm tội. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành chưa có sự phối hợp đồng bộ trong từng bộ phận, còn mang nặng hình thức trong công tác kiểm tra nghiệp vụ, chưa thường xuyên quan tâm đến phương pháp thực hiện. Do vậy cần phải nâng cao trách nhiệm quản lý, chỉ đạo và điều hành của Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp. Chỉ khi nào trách nhiệm của người đứng đầu được đặt ra cụ thể, thì công tác thực hiện nhiệm vụ bảo đảm quyền con người qua kiểm sát xét xử hiệu quả mới được nâng cao.

Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội - 11

3.2.2. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho Viện kiểm sát và hoàn thiện chính sách đối với cán bộ, Kiểm sát viên

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội và đã và đang tiến hành xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật hạ tầng, trang thiết bị, cũng như số hóa hệ thống

quản lý trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát. Hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã và đang xây dựng lại phần mềm quản lý đào tạo với tiện ích phong phú, đa dạng, bao quát toàn bộ các khâu trong quản lý án hình sự, dân sự, hành chính, sử dụng chung cho toàn hệ thống toàn thành phố: như phần mềm quản lý án hình sự tập trung, phần mềm quản lý án dân sự, hành chính, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, phần mềm quản lý nhân sự…..

Trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng mới nhiều trụ sở làm việc, trang thiết bị ngày càng hiện đại hơn, thực hiện nhiều chế độ chính sách đối với cán bộ, Kiểm sát viên. Tuy nhiên, kinh phí để bảo đảm cho hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân còn thấp so với yêu cầu thực tế; đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc của Viện kiểm sát các cấp còn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Do vậy, cần rà soát tổng thể trụ sở làm việc của hệ thống Viện kiểm sát, để đầu tư xây dựng trụ sở làm việc đảm bảo cho hoạt động thực hiện nhiệm vụ, chức năng được hiệu quả.

Hơn nữa, như đã phân tích ở trên về tầm quan trọng của mô hình tố tụng thân thiện với trẻ em, cơ sở vật chất kỹ thuật của các phòng làm việc với trẻ em tại Viện kiểm sát có vai trò không nhỏ trong thiết lập môi trường tố tụng thân thiện, chăm lo sức khỏe tinh thần cho trẻ em. Do đó, nếu không có chính sách tài chính phù hợp thì cũng rất khó để đòi hỏi sự khác biệt theo hướng tích cực của thủ tục tố tụng với trẻ em so với thủ tục tố tụng chung.

Ngoài ra cần tập trung và ưu tiên trang bị các phương tiện phục vụ cho công tác thực hiện nhiệm vụ của Kiểm sát viên như: phương tiện đi lại, dụng cụ phục vụ cho nghiệp vụ kiểm sát, các máy móc văn phòng cho các Viện kiểm sát, công tác xét xử lưu động hoặc khám nghiệm hiện trường v.v…

Tăng cường chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, Kiểm sát viên nhằm tạo điều kiện giải quyết những khó khăn về kinh tế trong cuộc sống,

động viên họ gắn bó với Ngành, cũng như thu hút những người có đức có tài, những chuyên giả giỏi đóng góp trí tuệ cho sự phát triển của Viện kiểm sát nhân dân thành phố nói riêng và toàn ngành Kiểm sát nói chung.

3.3. Các giải pháp về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội

3.3.1. Nâng cao nhận thức, năng lực của Kiểm sát viên trong việc giải quyết các vụ án xâm hại tình dục trẻ em

Trước mắt và trong thời gian tới đối với cán bộ, công chức nhà nước trong mối quan hệ với nhân dân (quan hệ cá nhân và Nhà nước) đòi hỏi xây dựng chế độ trách nhiệm bảo đảm mỗi cán bộ, công chức nhà nước có thể phát huy hết năng lực cá nhân; đồng thời, xác định cụ thể trách nhiệm cá nhân của mỗi cán bộ, công chức nhà nước trong quá trình thực thi công vụ. Quyền trẻ em là một bộ phận quan trọng của quyền con người, đảm bảo quyền trẻ em chính là cuộc đấu tranh bề bỉ và và lâu dài của toàn bộ nhân dân, nhất là đối với đội ngũ cán bộ, công chức. Việc thừa nhận quyền trẻ em trong các trong các văn bản pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là cơ sở pháp lý, là điều kiện quan trọng để trẻ em phát triển một cách toàn diện về thể lực, tinh thần và nhân cách.. Điều này được thể hiện rõ nét nhất trong đường lối nhất quán của Đảng về bảo vệ trẻ em, coi trẻ em là chủ nhân tương lai, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Đối với hoạt động tố tụng hình sự nói riêng, nâng cao nhận thức về quyền trẻ em, hay nói cách khác là tăng cường hệ thống pháp lý thân thiện với trẻ em cho những người tiến hành tố tụng là các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, bởi một điều mà người ta lo ngại nhất khi nói đến vấn đề bảo vệ quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục đó chính là sự xâm phạm quyền con người từ phía công quyền.

Trẻ em bị xâm hại do tuổi còn nhỏ nên rất dễ bị tổn thương, nhiều khi không hiểu được những gì đang diễn ra với mình, không dám hoặc không kể

lại những gì đang xảy ra, không hiểu được ngôn ngữ phức tạp, đặc biệt là những từ ngữ luật. Khi phải tiếp xúc với những người tiến hành tố tụng thì phong cách, tấm gương của người cán bộ có ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng, nhận thức và tình cảm của trẻ em theo hướng tích cực hoặc tiêu cực. Vì vậy, xây dựng môi trường tố tụng thân thiện với trẻ em sẽ đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em, tạo cơ hội làm giảm sự tổn thương cho các em mặt khác giúp cho việc thu thập thông tin về vụ án được đầy đủ, chính xác, hiệu quả.

Người tiến hành tố tụng là chủ thể quan trọng nhất trong việc tạo ra môi trường tố tụng thân thiện với trẻ em. Bộ Luật Tố tụng hình sự đã đặt ra yêu cầu: “ Điều tra viên, Kiểm sát viên, thẩm phán tiến hành tố tụng… phải là những người có có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục, cũng như về hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của người chưa thành niên”. Bởi lẽ, làm rõ trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, điều kiện sinh sống giáo dục, tâm lý của trẻ em về cơ bản chỉ đạt hiệu quả tốt khi bản thân các chủ thể chứng minh có tâm huyết, sự cảm thông chia sẻ và kỹ năng làm việc với trẻ em. Tâm huyết, sự cảm thông, chia sẻ và kỹ năng làm việc với trẻ em chính là điều kiện cần thiết tạo lập môi trường tố tụng thân thiện với trẻ em.

Những yếu tố cơ bản định hình xây dựng một trường tố tụng thân thiện với trẻ em đó là: về cơ sở chất chất (Buồng hỏi cung, lấy lời khai) có nội thất nhẹ nhàng, phù hợp tâm lý lứa tuổi để giảm bớt sự lo âu, căng thẳng, sợ hãi của các em; cách thức lấy lời khai phai có sự khác biệt với người đã thành nên đó là nhẹ nhàng, không mắng mỏ, áp đặt, mớm cung. Các cán bộ tiến hành tố tụng cần có hiểu biết về tâm lý giáo dục và thái độ thân thiện gần gũi với trẻ em, sử dụng ngôn ngữ phù hợp với độ tuổi, giới tính, khả năng nhận thức của bị hại…

3.3.2. Tăng cường bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ về chính trị, nghiệp vụ và trách nhiệm của cán bộ, Kiểm sát viên

Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh luôn được Đảng và Nhà nước ta xác định là nhiệm vụ quan trọng. Bộ Chính trị đã ban hành hai nghị quyết chuyên đề về vấn đề này, Nghị quyết số 08 và Nghị quyết số 49. Thực hiện các Nghị quyết trên, đội ngũ cán bộ được tăng cường, chất lượng hoạt động tư pháp đã có chuyển biến đáng kể.

Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan, đầu tư cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ tương xứng với yêu cầu về nhiệm vụ, thì việc nâng cao năng lực của kiểm sát viên đóng vai trò quyết định. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, năng lực của kiểm sát viên là yếu tố quan trọng nhất, nó được hợp thành bởi 3 yếu tố: Kiến thức; Kỹ năng; Thái độ. Đây cũng là những yêu cầu cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong bối cảnh hiện nay:

Thứ nhất, về kiến thức, kiểm sát viên cần không ngừng cập nhật, nâng cao các loại kiến thức để phục vụ cho việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, bao gồm kiến thức nghề, kiến thức ngoài nghề. Kiến thức nghề (kiến thức cứng) là sự hiểu biết về pháp luật, làm cơ sở cho việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố. Kiến thức ngoài nghề (kiến thức mềm), sự hiểu biết về các khoa học xã hội khác, như tội phạm học; khoa học về chứng cứ, về dấu vết; logic; tâm lý học đặc biệt là tâm lý trẻ em; xã hội học... Đồng thời, giúp kiểm sát viên phát hiện ra những mâu thuẫn , thiếu logic trong lời khai của bị cáo cũng như lập luận của bên gỡ tội.

Để trang bị kiến thức cho đội ngũ kiểm sát viên, hằng năm ngành kiểm sát phải:

- Luôn quán triệt một cách đầy đủ và sâu sắc các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của

Ngành để thể chế hóa và vận dụng sát hợp vào công tác quy hoạch và kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ.

- Đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh nhanh tiến độ tiêu chuẩn hóa cán bộ, phải không ngừng đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và luôn coi đó là một yêu cầu tất yếu, được đặt ngang nhiệm vụ chính trị trong công tác xây dựng Ngành. Tập trung nguồn lực cần thiết cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong thời gian tới, đặc biệt quan tâm tới đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và cấp cơ sở.

- Luôn xác định rõ và không chệch hướng mục tiêu nhiệm vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trong đó đặc biệt chú trọng nội dung giáo dục chính trị tư tưởng và đạo đức cách mạng như lời dạy của Bác đối với cán bộ kiểm sát: “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”. Đào tạo có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm có hiệu quả, tránh hình thức.

- Tiếp tục đa dạng hóa và mở rộng quy mô đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng cơ bản, đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn hóa cán bộ theo yêu cầu cải cách tư pháp.

- Làm cho cán bộ thấy rõ quyền lợi, trách nhiệm và danh dự trong việc tư tưởng nghĩa vụ học tập.

- Có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng cho đội ngũ kiểm sát viên làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử; thường xuyên có chuyên đề tổng kết rút kinh nghiệm về công tác giải quyết các vụ án xâm hại tình dục trẻ em từ những vụ án cụ thể cũng như những vướng mắc khó khăn đang gặp phải. Trên cơ sở kế hoạch đào tạo chung của ngành, lãnh đạo viện kiểm sát nhân dân các tỉnh chủ động cử cán bộ tham gia các lớp học như: cao cấp lý luận chính trị, quản lý nhà nước hệ chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp, sau đại học; nâng cao nghiệp vụ hình sự; tin học, ngoại ngữ; cũng như các khoa học xã hội khác.

Xem tất cả 109 trang.

Ngày đăng: 13/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí