Quy Định Về Quyền Của Người Bị Buộc Tội Trong Tths:

Khi thực hiện lệnh bắt bị can, bị cáo, người thi hành phải đảm bảo triệt để các quy định, các nguyên tắc được pháp luật quy định như: đọc to lệnh bắt, giải thích cho người bị bắt rò lý do bắt, lệnh bắt và các quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về lệnh bắt. Khi tiến hành bắt người thì phải có người chứng kiến để đảm bảo tính công khai, dân chủ (đại diện chính quyền địa phương, người láng giềng hoặc đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc).

Bên cạnh đó, BLTTHS còn quy định về việc thay thế hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tại Điều 94. Quy định này rất có ý nghĩa trong việc đảm bảo các quyền con người. Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn là việc cơ quan tiến hành tố tụng quyết định không tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khi lý do để tiếp tục áp dụng không còn nữa hoặc việc áp dụng không còn cần thiết nữa. Thay thế biện pháp ngăn chặn là việc cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng một biện pháp ngăn chặn khác thay cho biện pháp ngăn chặn đang được áp dụng phù hợp hơn với tình hình hiện tại. Đây chính là sự cụ thể hóa nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân được quy định tại Điều 4 BLTTHS.

2.1.2.3. Quy định về quyền của người bị buộc tội trong TTHS:

Người bị buộc tội trong TTHS là những người bị nghi ngờ phạm tội, bị đặt vào trạng thái pháp lý bất lợi, gồm người bị tạm giữ, bị can và bị cáo.

Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ (Khoản 1 Điều 48 BLTTHS). Người bị tạm giữ có thể là người chưa bị khởi tố về hình sự (người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, tự thú) hoặc có thể là người đã bị khởi tố về hình sự (bị can, bị cáo, bị án bỏ trốn ra đầu thú hoặc bị bắt theo quyết định truy nã). Những người này phải chịu sự cưỡng chế của cơ quan tiến hành tố tụng, bị hạn chế một số quyền tự do nhưng không phải mất hoàn toàn các quyền con người. Không những thế, họ vẫn có các quyền năng nhất định.

* Quyền của người bị tạm giữ:

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 48 BLTTHS thì người bị tạm giữ có các quyền sau:

- Quyền được biết lý do mình bị tạm giữ.

Quyền này được thực hiện khi bắt đầu việc tạm giữ. Người bị tạm giữ có quyền được nghe đọc biên bản bắt người. Nếu không đồng ý với việc bị bắt thì người tạm giữ có quyền ghi ý kiến không đồng ý vào biên bản và ký tên.

- Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

Người tạm giữ có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, tuy nhiên không phải ai cũng biết được các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình một cách chính xác và đầy đủ. Do đó, cơ quan thực hiện việc tạm giữ phải giải thích các quyền và nghĩa vụ để người bị tạm giữ hiểu và thực hiện.

- Quyền được trình bày lời khai.

Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự - 6

Người bị tạm giữ có quyền trình bày những vấn đề liên quan đến việc họ bị bắt giữ để cơ quan tạm giữ, cán bộ điều tra có cái nhìn khách quan, toàn diện về vụ án.

- Quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.

Quyền bào chữa là một trong những quyền tố tụng quan trọng nhất của người bị tạm giam. Quy định này tạo điều kiện cho người bị tạm giam đưa ra những lý lẽ, lập luận để chứng minh mình không phạm tội, không liên quan đến vụ án hoặc quyền nhờ người khác bào chữa cho mình. Việc nhờ người khác bào chữa thường là những người có hiểu biết nhất định về pháp luật, có khả năng tìm vận dụng những quy định có lợi nhất để áp dụng cho thân chủ. Mặc dù BLTTHS quy định “được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa” nhưng trong thực tiễn tố tụng hai quyền này không bị loại trừ nhau mà người bị tạm giữ vẫn có điều kiện để tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa.

- Quyền được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.

Người bị tạm giữ có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật để chứng minh cho việc mình không liên quan đến vụ việc hoặc liên quan theo một góc độ khác, không giống như sự nghi ngờ của cơ quan tiến hành tố tụng. Đồng thời họ cũng có quyền yêu cầu để xác minh lại sự việc cũng như các căn cứ buộc tội họ

- Quyền khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Người bị tạm giữ có quyền khiếu nại về việc tạm giữ và các hoạt động tố tụng liên quan khác (khám chỗ ở, chỗ làm việc, tạm giữ đồ vật, tài liệu) nếu cho rằng các hoạt động tố tụng đó là oan sai, tùy tiện.

Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự và tham gia TTHS từ khi có quyết định khởi tố bị can đối với họ. Bị can tham gia ở giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử (từ khi Tòa án thụ lý hồ sơ vụ cho đến khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử)

* Quyền của bị can:

Bị can có các quyền được quy định tại Khoản 2 Điều 49 BLTTHS gồm:

- Quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì.

Cũng giống như quyền được biết lý do mình bị tạm giữ của người bị tạm giữ thì bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì. Chỉ khi nào bị can được biết mình bị khởi tố về tội gì thì mới có thể đưa ra những chứng cứ, lý lẽ để bác bỏ lại việc buộc tội đó.

Ngoài ra, bị can cũng có những quyền tố tụng giống với người bị tạm giữ, đó là các quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ; được trình bày lời khai; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Tuy nhiên, do bị can là người đã bị khởi tố về hình sự nên ngoài các quyền tương tự như quyền của người bị tạm giữ thì còn có các quyền sau đây:

- Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của BLTTHS.

Bị can có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của BLTTH. Tuy nhiên, việc đề nghị đó chỉ được chấp nhận nếu có căn cứ rò ràng để chứng minh người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch có thể không vô tư khi làm nhiệm vụ, việc để các chủ thể đó tham gia vào việc giải quyết vụ án có thể làm sai lệch nội dung, ảnh hưởng đến sự thật khách quan của vụ án.

- Quyền được nhận các quyết định tố tụng theo quy định của BLTTHS (quyết

định khởi tố; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; kết luật điều tra…)

Quy định này tạo điều kiện cho bị can nắm được tiến trình giải quyết vụ án, biết được mình đang ở giai đoạn nào để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng phù hợp.

Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Bị cáo tham gia tố tụng từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của Tòa có hiệu lực pháp luật

* Quyền của bị cáo:

Các quyền của bị cáo được quy định tại Điều 50 BLTTHS gồm:

Trước hết, vì bị can là tư cách tố tụng liền trước của bị cáo nên bị cáo có các quyền giống với bị can, đó là các quyền: Được nhận các quyết định tố tụng; được giải thích về quyền và nghĩa vụ; được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng.

Ngoài ra thì bị cáo có một số quyền mà người tạm giữ và bị can không/chưa có như sau:

- Quyền được tham gia phiên tòa.

Phiên tòa được xem như là câu trả lời của cả quá trình tố tụng. Mọi vấn đề của vụ án sẽ được giải quyết tại đây, trong đó, điều quan trọng nhất là bị cáo có phạm tội hay không, nếu có thì phạm tội gì và mức án là bao nhiêu? Vì vậy, việc tham gia phiên tòa sẽ tạo điều kiện để bị cáo thực hiện các quyền tố tụng quan trọng của mình như quyền bào chữa, quyền tranh luận… để HĐXX có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan, từ đó quyền lợi hợp pháp của bị cáo sẽ được đảm bảo hơn. Cho nên, việc tham gia phiên tòa được xác định là một quyền của bị cáo chứ không phải là nghĩa vụ. Việc xét xử bị cáo vắng mặt chỉ được tiến hành trong ba trường hợp là: Bị cáo trốn tránh và việc truy nã không có kết quả; Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa; Sự vắng mặt của bị cáo không trở cho việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ (Điều 187 BLTTHS)

Như vậy, BLTTHS coi việc tham gia phiên tòa là một quyền năng của bị cáo. Chỉ khi nào bị cáo từ chối thực hiện quyền đó thì mới xét xử vắng mặt để đảm bảo tiến độ giải quyết vụ án.

- Quyền trình bày ý kiến tranh luận tại phiên tòa.

Bị cáo có quyền đưa ra những ý kiến, lập luận của mình và đối đáp với những ý kiến của các chủ thể khác. Quyền này thể hiện sự bình đẳng của bị cáo đối với bên buộc tội và những người tham gia tố tụng khác. Ngoài ra, việc đối đáp sẽ giúp cho HĐXX nhìn nhận ra những tình tiết hợp lý, đúng đắn.

- Quyền nói lời nói sau cùng trước khi nghị án.

Quyền này tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội được bày tỏ thái độ và nguyện vọng của mình trước khi HĐXX đưa ra những quyết định đối với vụ án.

- Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án.

Quyền này tạo điều kiện cho bị cáo được xét xử lần thứ hai với một HĐXX khác ở cấp xét xử phúc thẩm nhằm bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, khách quan hơn.

2.1.2.4. Quy định về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

Theo Khoản 1 Điều 33 BLTTHS thì cơ quan tiến hành tố tụng gồm: CQĐT, VKS và Tòa án. BLTTHS không quy định cụ thể, riêng biệt về nhiệm vụ của ba cơ quan này như là một thực thể tổ chức. Tuy nhiên, ta có thể hiểu được nhiệm vụ riêng của các CQĐT, VKS, Tòa án qua việc quy định quyền hạn, nhiệm vụ của những người tiến hành tố tụng, qua các nguyên tắc, quy định chung về hoạt động tố tụng của các cơ quan này. Sở dĩ, chúng tôi dùng từ “nhiệm vụ riêng” vì hai lẽ: Thứ nhất các cơ quan này trước hết phải có một nhiệm vụ chung là “bảo vệ pháp chế, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân”. Thứ hai, căn cứ vào vị trí của mỗi cơ quan sẽ có một nhiệm vụ đặc thù nhất định được phản ánh qua từng hoạt động của mỗi giai đoạn tố tụng.

Nhiệm vụ của CQĐT được phản ánh tại phần thứ hai của BLTTHS 2003, từ

chương VIII đến chương XIV, gồm 65 Điều (từ Điều 100 đến Điều 165). Theo đó, CQĐT có các nhiệm vụ như sau:

- Tiếp nhận, giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm.

- Tiến hành các hoạt động điều tra để phát hiện, thu thập, kiểm tra chứng cứ (lấy lời khai, khám xét, khám nghiệm hiện trường …)

- Khởi tố vụ án và khởi tố bị can: sau khi xác định có dấu hiệu tội phạm thì CQĐT phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì CQĐT phải ra quyết định khởi tố bị can.

- Áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn.

- Đình chỉ điều ra khi có căn cứ theo luật định. Trong các căn cứ để đình chỉ điều tra, thì căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 điều 164 BLTTHS có ý nghĩa quan trọng để bảo đảm quyền con người. Nội dung quy định này là “khi hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì phải đình chỉ điều tra”. Quy định này chứng tỏ trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về CQĐT, khi không thực thi được nhiệm vụ của mình thì CQĐT phải xóa bỏ sự buộc tội đối với bị can.

- Hoạt động đặc thù: truy nã bị can, đề nghị truy tố.

Như vậy, hoạt động của CQĐT là bước khởi động đầu tiên của cả quá trình tố tụng. Nếu hoạt động này đúng hướng sẽ tạo điều kiện cho các giai đoạn sau tiến hành được thuận lợi, nhanh chóng hơn. Trong giai đoạn điều tra thì hai văn bản có giá trị nhất là khởi tố vụ án/khởi tố bị can và bản kết luận điều tra vụ án.

Nếu như CQĐT chỉ tham gia vào giai đoạn điều tra, Tòa án chỉ tham gia vào giai đoạn xét xử thì VKS tham gia vào tất cả các giai đoạn của TTHS. VKS có những nhiệm vụ sau đây:

- Trong giai đoạn điều tra thì VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra nhằm bảo đảm cho việc điều tra được khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác và đúng pháp luật. Ngoài việc đề ra yêu cầu điều tra, VKS cũng trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra. Ngoài ra, trong giai đoạn này, VKS có quyền phê chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết định của

CQĐT có khả năng làm ảnh hưởng đến quyền con người (Lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam; Lệnh tạm giam…) để hạn chế sự tùy tiện, chuyên quyền của CQĐT.

- Trong giai đoạn truy tố (là giai đoạn thể hiện rò nét nhất vai trò của VKS), VKS có những chức năng, nhiệm vụ như sau:

+ Trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung: nhằm củng cố chứng cứ, không để lọt tội phạm cũng như khắc phục các vi phạm tố tụng đã xảy ra (nếu có)

+ Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.

+ Áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn.

+ Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản Cáo trạng.

- Trong giai đoạn xét xử, VKS có trách nhiệm:

+ Tham gia phiên tòa, tham gia xét hỏi, tranh luận, phát biểu quan điểm về đường lối xử lý vụ án để bảo vệ sự buộc tội tại phiên tòa. Đặc biệt, quy định tại Điều 195 BLTTHS về việc Kiểm sát viên rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn cho thấy tính công khai, dân chủ cũng như tinh thần bảo vệ quyền con người trong TTHS.

+ Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án.

Cơ quan thứ ba trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng là Tòa án. Tòa án có chức năng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám độc thẩm vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.

Chức năng, nhiệm vụ của Tòa án được thể hiện qua các hoạt động của Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Thư ký và HĐXX, trong đó có những quy định có ý nghĩa với việc bảo đảm quyền con người như sau:

+ Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.

+ Áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn.

+ Trả tự do cho bị cáo theo quy định tại Điều 227 BLTTHS.

+ Quyết định về việc thay đổi thành viên của HĐXX, Kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch, thư ký tòa án… chính là việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm sự vô tư trong tố tụng.

+ Mở phiên tòa xét xử để ra bản án quyết định việc bị cáo có phạm tội hay không, hình phạt và các biện pháp tư pháp khác

Trong các hoạt động của Tòa án thì việc ra bản án có ý nghĩa quan trọng, kết thúc chuỗi hoạt động tố tụng, trả lời mọi câu hỏi các vấn đề của vụ án. Bản án của Tòa án có một vai trò quan trọng, nhân danh Nhà nước nên khi có hiệu lực buộc tất cả mọi người, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tôn trọng, thực thi. Do vai trò quan trọng này nên Phần thứ 5 của BLTTHS được dành để quy định về việc thi hành bản án và quyết định của Tòa án.

Như vậy, trong hệ thống các cơ quan tố tụng thì “Tòa án đóng vai trò trung tâm và hoạt động xét xử là trọng tâm” đúng như Bộ Chính trị đã xác định tại Nghị quyết số 49-NQ/TW.

Những người tiến hành tố tụng là những người trực tiếp tham gia vào việc giải quyết vụ án. Các hành vi tố tụng của những người này có sự ảnh hưởng nhất định đến nội dung vụ án, gồm có:

- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT.

- Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS; Kiểm sát viên.

- Chánh án, Phó Chánh án Tòa án; Thẩm phán; Hội thẩm; Thư ký Tòa án.

Đồng thời, BLTTHS 2003 cũng quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của những người này từ Điều 34 đến Điều 41. Những nhiệm vụ, quyền hạn đó nếu được thực thi một cách đúng đắn thì cũng đồng thời là sự thực thi pháp luật, là sự bảo đảm các giá trị quyền con người trong thực tế.

2.1.2.5. Quy định về phiên tòa hình sự:

Phiên tòa hình sự có vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người. Ở vị trí trọng tâm trong toàn bộ quá trình tố tụng, phiên tòa không chỉ là sự bảo đảm quyền lợi cho bị hại (đối tượng của tội phạm) mà còn bảo vệ quyền lợi cho chính bị cáo - người bị buộc tội.

Thực chất, phiên tòa hình sự là sự áp dụng, sự cụ thể hóa, chi tiết hoá các nguyên tắc cơ bản đã được đề cập tại Chương II BLTTHS. Xem xét trình tự, thủ tục phiên tòa, ta có thể dễ dàng nhận ra bóng dáng của những nguyên tắc cơ bản đó đồng thời cũng chính là những đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam như chúng tôi đã phân tích ở phần II.2.1

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí