Pháp luật là công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong việc thực hiện, bảo vệ quyền của người bị tước tự do. Những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người không thể được đảm bảo đầy đủ nếu không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Thông qua pháp luật, nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các quyền trở thành những quy tắc cư xử chung, có hiệu lực bắt buộc và thống nhất cho tất cả mọi chủ thể trong xã hội, chứ không phải chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc đạo đức. Vai trò của pháp luật đối với việc thúc đẩy các quyền của người bị tước tự do thể hiện rò ở hai khía cạnh là thừa tiện chính thức hóa, pháp lý hóa giá trị xã hội của các quyền tự nhiên. Ngay cả khi được thừa nhận, các quyền tự nhiên của người bị tước tự do cũng không được mặc định áp dụng ở nhiều xã hội. Mà chỉ khi được pháp luật thừa nhận và bảo vệ thì những quyền của người bị tước tự do mới mang đầy đủ giá trị hiện thực. Pháp luật có sứ mệnh cao cả là biến những nghĩa vụ đạo đức về tôn trọng và thực hiện các quyền tự nhiên thành các nghĩa vụ pháp lý. Khía cạnh thứ hai thể hiện vai trò của pháp luật, đó là phương tiện bảo đảm các giá trị thực tế của các quyền của người bị người bị cáo buộc phạm tội trong hoạt động xét xử.
Thứ tư: những quyền của người bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử được bảo đảm bằng cơ chế không chỉ trong phạm vi quốc tế mà ở cả phạm vi khu vực và phạm vi quốc gia.
Các quyền của người bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử được quy định trong luật pháp quốc tế và quốc gia. Để các quyền đó đi vào cuộc sống, trở thành hiện thực thì cần thiết phải có cơ chế bảo đảm. Nói cách khác, quy định pháp luật là xuất phát điểm bảo đảm quyền con người nhưng hiệu quả của quy định sẽ bị hạn chế nếu không có cơ chế đầy đủ để thực thi vì kinh nghiệm thực tiễn chứng minh quan trọng là thực thi pháp luật. Cơ chế có nghĩa là "cách thức sắp xếp, tổ chức để làm đường hướng, cơ sở theo đó một quá trình thực hiện" (giáo trình). Cơ chế bao gồm bộ máy các cơ quan chuyên
trách và hệ thống các quy tắc, trình tự, thủ tục để thực hiện việc bảo vệ quyền. Cơ chế bảo đảm quyền của người bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử hiện nay có ba cấp độ, đó là cơ chế quốc tế; cơ chế khu vực; cơ chế quốc gia. Cơ chế quốc tế có phạm vi rộng lớn, toàn cầu và có vai trò nhất định trong việc bảo đảm quyền của người bị tước tự do. Nhưng ở một mức độ nhất định, một số cơ chế khu vực (như cơ chế khu vực châu Âu) lại tỏ ra chặt chẽ, hiệu quả hơn so với cơ chế quốc tế của Liên hợp quốc.
Từ những phân tíc h trên , tác giả có th ể đưa ra định nghĩa đầy đủ v ề quyền con người trong hoạt động xét xử như sau: Quyền con người của người bị cáo buộc phạm tội trong hoạt động xét xử là quyền được bảo đảm an toàn,
tôn trọng về thân thể, phẩm giá con người và quyền được xét xử công bằng được thừa nhận trong pháp luật và được bảo đảm bằng cơ chế ở cả phạm vi quốc tế, khu vực và quốc gia.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử
Việc quy định Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án trong đó có án hình sự là nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tránh những việc làm tùy tiện, bởi vì không phải bất cứ ai hay bất cứ tổ chức nào cũng có quyền kết tội một công dân. Chỉ có Tòa án là cơ quan được pháp luật của nhà nước quy định có quyền thay mặt nhà nước ra phán quyết một người là có tội hay không và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Để thực hiện được nhiệm vụ trên thì Thẩm phán - người trực tiếp giải quyết các vụ án và đưa ra phán quyết giữ một vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng. Thẩm phán được giao nhiệm vụ quyết định tối cao về sinh mạng, tự do, các quyền, trách nhiệm và tài sản của công dân. Trong bản các nguyên tắc cơ bản của Liên hợp quốc về tính độc lập của tư pháp được Đại hội liên hợp
quốc lần thứ 7 về ngăn chặn tội ác và đối xử với bị can được tổ chức tại Milan từ ngày 26/8 đến ngày 06/9/1985 và được Đại hội đồng ghi nhận trong Nghị quyết số 40/32 ngày 29/11/1985 và Nghị quyết số 40/146 ngày 13/12/1985 quy định: "Xét thấy, các Thẩm phán có trách nhiệm đưa ra quyết định cuối cùng về cuộc sống, sự tự do, nghĩa vụ và tài sản của công dân".
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự trên cơ sở số liệu của tỉnh Đắk Nông - 1
- Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự trên cơ sở số liệu của tỉnh Đắk Nông - 2
- Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự trên cơ sở số liệu của tỉnh Đắk Nông - 3
- Nội Dung Và Cơ Chế Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Hoạt Động Xét Xử
- Cơ Chế Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Hoạt Động Xét Xử
- Pháp Luật Việt Nam Với Việc Đảm Bảo Quyền Con Người Trong Hoạt Động Xét Xử
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
Như vậy, hoạt động xét xử là việc phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp các hành vi của chủ thể pháp luật. Một phán quyết của Thẩm phán liên quan trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của công dân. Nó ảnh hưởng tới những lợi ích của nhà nước, của các tổ chức và những giá trị được thừa nhận chung trong xã hội. Do đó, nảy sinh nhu cầu hoạt động xét xử cần phải đảm bảo tính cẩn trọng, kỹ lưỡng, tỉ mỉ. Đây chính là cơ sở của việc Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về những phán quyết của mình. Khi Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về những quyết định của mình thì những quyết định của Thẩm phán sẽ cẩn trọng hơn, kỹ lưỡng hơn. Từ đó việc xét xử sẽ đúng người, đúng tội, đảm bảo công lý, bất bình đẳng không xảy ra.
Trong quá trình xét xử, tòa án có trách nhiệm bảo đảm quyền con người bên cạnh những chức năng, nhiệm vụ khác của mình. Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử có những đặc điểm sau:
- Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử là một trong những hợp phần có tính chất đặc thù của bảo đảm quyền trong TTHS. Ở mức độ khái quát nhất, bảo đảm quyền con người trong trong hoạt động xét xử là những yếu tố để quyền con người được ghi nhận, thực thi trong quá trình giải quyết vụ án nhằm tôn trọng phẩm giá con người trong mọi hoàn cảnh và được xét xử công bằng. Thực hiện tốt bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử là đóng góp tích cực có hiệu quả trong việc bảo đảm quyền con người nói chung trong TTHS.
- Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử là chức năng của nhà nước với cơ chế phù hợp trong điều kiện kinh tế - xã hội, pháp lý của mình.
- Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử có vai trò quan trọng trong việc biến những nỗ lực, những ý tưởng tiến bộ của nhân loại ở các điều luật trở thành hiện thực trong thực tiễn giải quyết vụ án. Nói cách khác, bản thân các qui phạm pháp luật về quyền con người trong hoạt động xét xử đã là một thành tố quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người nhưng chỉ dừng lại ở đó quyền con người trong tố tụng hình sự sẽ không có trong thực tế và những qui phạm pháp luật sẽ trở thành vô nghĩa. Vì vậy, hình thành cơ chế bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự là đòi hỏi khách quan mang tính chất quyết định mà nhà nước nào cũng cần quan tâm.
- Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử mang tính chất đặc thù xuất phát từ những đặc điểm của tố tụng hình sự là một lĩnh vực hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước mà ở đó việc hạn chế các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là không thể tránh khỏi và các quyền và lợi ích đó có thể bị xâm phạm một cách nghiêm trọng bởi những người đại diện cho công quyền.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự như sau: Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử là sự vận hành của các yếu tố khách quan nhằm mục đích công bố, ghi nhận về mặt pháp lý các quyền con người trong trong hoạt động xét xử và bảo vệ và thực thi các quyền đó trong quá trình xét xử giải quyết vụ án hình sự.
1.2.2. Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự
Việc bảo đảm các quyền con người của người bị cáo buộc phạm tội trong hoạt động xét xử có ý nghĩa sau:
1.2.2.1. Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử góp phần bảo đảm quyền con người
Người bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử là thành viên của xã
hội nên bảo đảm quyền cho họ cũng chính là bảo đảm quyền con người nói chung. Việc thừa nhận các quyền của người bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử và cơ chế bảo đảm thực thi các quyền đó sẽ là công cụ pháp lý trừng trị những chủ thể có hành vi xâm hại quyền của người bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử. Quyền con người không được sử dụng để vi phạm quyền của người khác (Điều 30 của UDHR). Do vậy, tất cả các xung đột phải được giải quyết mà vẫn phải tôn trọng quyền con người kể cả vào những lúc khẩn cấp và trong trường hợp cần áp đặt một vài hạn chế. Người bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử cũng có nhân phẩm và họ cần phải được tôn trọng với phẩm giá vốn có. Không thể vì họ là người bị tước tự do mà nhân phẩm của họ bị giảm sút hay mất đi. Ngược lại, họ cần được bảo vệ hơn bởi vị thế dễ bị tổn thương của mình.
Luật nhân quyền quốc tế đã thừa nhận quyền của người bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử bằng một hệ thống các quy định trong các văn kiện pháp lý. Bên cạnh đó các cơ chế bảo đảm quyền của người bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử cũng được thiết lập. Điều đó sẽ góp phần làm hạn chế các hành vi xâm hại đến quyền của người bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử. Do đó, việc quy định quyền và cơ chế thực thi quyền cho người cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm quyền cho họ, chống lại các hành vi xâm hại tới quyền của họ do các chủ thể khác thực hiện.
1.2.2.2. Bảo đảm quyền con người trong xét xử góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là một hiện tượng chính trị - pháp lý phức tạp được hiểu và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau, song chúng ta có thể hiểu nhà nước pháp quyền theo cách đơn giản, đó là một nhà nước quản lý kinh tế
- xã hội bằng pháp luật và nhà nước hoạt động tuân theo pháp luật. Pháp luật
đó được các chủ thể thực hiện một cách tự giác chứ không ép buộc. Bởi lẽ đó là pháp luật vì quyền con người, phục vụ con người, là pháp luật của dân chủ, bình đẳng và văn minh. Đó là nhà nước bảo đảm quyền con người tốt nhất trong lịch sử loài người.
Trong một nền dân chủ hiện đại, không thể thiếu vắng vai trò của việc đề cao pháp luật, xem pháp luật là nguyên tắc tối thượng; đồng thời, có những cơ chế để kiềm chế xu hướng tha hóa, lạm dụng quyền lực nhà nước của bất cứ nhánh quyền lực nào cũng như của từng cá nhân - công chức và quan chức nhà nước - là những người đại diện cho nhân dân. Hơn thế nữa pháp luật đó phải được xây dựng theo một quy trình dân chủ, minh bạch và công khai. Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh cơ bản đối với toàn bộ hoạt động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp pháp của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên không phải mọi chế độ lập Hiến, mọi hệ thống pháp luật đều có thể đưa lại khả năng xây dựng nhà nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền trong nhà nước và xã hội.
Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nước. Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm bảo quyền con người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của mình theo đúng các quy định của luật pháp. Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp luật dân chủ và công bằng. Do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là một yêu cầu, một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật luôn được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh. Hình thức và phương thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia có thể đa dạng và khác nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao, bất khả xâm phạm của Hiến pháp, loại bỏ
hành vi trái với tinh thần và quy định của Hiến pháp, không phụ thuộc và chủ thể của các hành vi này. Đồng thời với bảo vệ Hiến pháp, nhà nước pháp quyền luôn đòi hỏi phải xây dựng và thực thi một chế độ tư pháp thật sự dân chủ, minh bạch và trong sạch để duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Bản chất của nhà nước pháp quyền là nhà nước tôn trọng giá trị nhân quyền và bảo đảm cho các giá trị đó được thực thi trong thực tế. Khi quyền của những người bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử được bảo vệ tức là đã góp phần xây dựng một Nhà nước pháp quyền và đó cũng là một tiêu chí để xác định nhà nước đó có phải là Nhà nước pháp quyền hay không?
1.2.2.3. Bảo vệ quyền con người trong hoạt động xét xử góp phần bảo vệ công lý và văn minh nhân loại
Quyền con người là thành quả đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân loại, của các dân tộc bị áp bức trên thế giới nhằm xác lập quyền bình đẳng, tự do trong các quan hệ giữa người và người, cũng như giữa các dân tộc; và đó cũng là thành quả đấu tranh của loài người nhằm hướng tới làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình. Ở thời kỳ nô lệ, có tầng lớp nô lệ - những kẻ không được coi là người, không được hưởng các quyền con người tối thiểu. Họ có thể bị bắt, giam cầm bất cứ lúc nào, vì bất cứ lý do gì. Và khi đó, họ bị đối xử tàn tệ, bị tra tấn, đánh đập, bị kết tội không cần lý do. Chế độ phong kiến so với chế độ nô lệ đã là một bước tiến trong việc giành lại quyền tự do và giải phóng con người. Tuy vậy, các quyền con người trong đó có quyền của người bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử vẫn bị xâm phạm không thương tiếc. Việc tra khảo (tra tấn) được coi như là một nghiệp vụ điều tra dưới các triều đại phong kiến. Trong xã hội này bị tước tự do đồng nghĩa với bị tước bỏ mọi quyền con người khác. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của loài người, nội dung các quyền con người tiếp tục
phát triển. Cuộc cách mạng nhân quyền quốc tế hiện đại bắt đầu bằng sự ra đời của Hiến chương Liên Hợp quốc 1945 và Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền UDHR - hai văn kiện quốc tế quan trọng đầu tiên về nhân quyền. Ngay tại UDHR, rất nhiều quyền của người bị tước tự do đã được khẳng định. Đó là tại các Điều 5 (về quyền không bị tra tấn, đối xử, xử phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm); Điều 7 (về quyền bình đẳng trước pháp luật); Điều 9 (về quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện); Điều 10 (về quyền được xét xử công bằng); Điều 11 (về quyền được suy đoán vô tội)… Sau đó, quyền con người được pháp điển hoá trong một loạt Công ước quốc tế về nhân quyền. Đặc biệt trong ICCPR nhiều quyền quan trọng của người bị tước tự do đã được ghi nhận. Đó là quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục nhân phẩm (Điều 7); quyền không bị bắt hoặc giam giữ tùy tiện (Điều 9), quyền được đối xử nhân đạo (Điều 10); quyền được xét xử công bằng… Hệ thống các quyền trên của người bị tước tự do sau đó được cụ thể hóa tại hoàng loạt các văn kiện quốc tế như: Công ước CAT, tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào, 1988; các quy tắc của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do, 1990…
Sự phát triển của các quyền con người nói chung, quyền của người bị tước tự do nói riêng phản ánh sự phát triển của xã hội ngày càng văn minh hơn. Khát vọng bảo vệ nhân phẩm của tất cả con người là cốt lòi của khái niệm quyền con người, coi cá nhân con người là trọng tâm của sự quan tâm. Nó dựa trên một hệ thống giá trị toàn cầu phổ biến nhằm cống hiến cho sự linh thiêng của cuộc sống và tạo ra một khuôn khổ để xây dựng hệ thống quyền con người, được các quy phạm và tiêu chuẩn quốc tế bảo vệ. Quyền con người cũng bảo đảm sự bình đẳng, chẳng hạn như bảo vệ quyền bình đẳng chống lại mọi hình thức phân biệt đối xử trong hưởng thụ tất cả các