Quyền Bào Chữa Của Người Bị Tạm Giữ, Bị Can, Bị Cáo Chưa Được Bảo Đảm Triệt Để

+ Cơ quan Thanh tra Quốc hội (Ombudsman).

Cơ quan này thông thường thuộc nhánh lập pháp, do Quốc hội thành lập nhưng có tính độc lập tương đối đối với Quốc hội.

Chức năng của mô hình này là giám sát sự công bằng và hợp pháp của bộ máy hành chính công. Ombudsman nhận khiếu nại từ công chúng (trực tiếp hoặc gián tiếp qua các nghị sỹ quốc hội ở địa phương) và tiến hành điều tra nếu vụ việc thuộc thẩm quyền của mình. Ngoài ra Ombudsman cũng có quyền chủ động tiến hành điều tra những vi phạm quyền con người trên phạm vi rộng hoặc thu hút sự quan tâm lớn của công chúng.

So sánh ba cơ chế trên ta có thể đưa ra kết luận sau:

Thứ nhất, các cơ chế này tạo điều kiện cho người dân tiếp cận việc bảo đảm nhân quyền một cách nhanh chóng.

Thứ hai, trong thủ tục hoạt động thì các cơ chế này đề cao tính mềm dẻo, đề cao các biện pháp như trao đổi, đối thoại… Tuy nhiên, trong những trường hợp nhất định thì có thể dùng đến sức mạnh cưỡng chế bằng các phán quyết của Tòa án. Riêng cơ chế nhân quyền quốc gia không có mô hình Tòa án để xem xét, xử lý các khiếu nại vì đã có hệ thống Tòa án của mỗi quốc gia. Còn cơ chế nhân quyền Liên Hợp Quốc và cơ chế nhân quyền khu vực thì Tòa án nhân quyền vẫn là một thiết chế có vị trí quan trọng trong việc thúc đẩy và bảo đảm quyền con người. Điều đó cho thấy, con đường tài phán luôn có những hiệu quả thiết thực mà không mô hình nào thay thế được.

Chương 3

MỘT SỐ TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG XÉT XỬ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


3.1. Một số tồn tại trong xét xử vụ án hình sự

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

Từ những quy định trong Hiến pháp và BLTTHS, quyền con người trong TTHS ngày càng được hoàn thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong thời gian qua, hoạt động TTHS nói chung, xét xử nói riêng còn bộc lộ một số hạn chế, vướng mắc làm giảm hiệu quả của việc bảo vệ quyền con người bằng pháp luật TTHS. Trong đó nổi lên một số vấn đề sau:

3.1.1. Sự độc lập của Tòa án còn hạn chế

Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự - 8

Theo quy định của pháp luật, chức năng xét xử thuộc duy nhất về Tòa án. Tuy nhiên, sự xét xử đó có được độc lập không lại là vấn đề khác. Độc lập xét xử nghĩa là Tòa án sẽ quyết định những vấn đề của vụ án phù hợp với sự đánh giá khách quan của mình và sự hiểu biết của mình về pháp luật mà không chịu sự tác động trực tiếp hay gián tiếp, bởi bất kỳ ai, cơ quan hay tổ chức nào. Độc lập là yếu tố quan trọng nhất giúp cho Tòa án xét xử một cách khách quan và công bằng. Tuy vậy, trên thực tế, sự độc lập không phải khi nào cũng được đảm bảo triệt để, làm ảnh hưởng đến việc xét xử, ảnh hưởng đến các quyền con người trong TTHS. Và để có sự độc lập đó, không phải chỉ Tòa án muốn là được.

Nhiều quốc gia không chỉ quy định Tòa án có chức năng xét xử mà còn quy định rò Tòa án giữ quyền tư pháp để có sự đối trọng, chế ước với hai nhánh quyền lực còn lại là lập pháp và hành pháp. Ở Việt Nam, chưa có sự ghi nhận này. Từ trước đến nay, Tòa án được xác định là cơ quan duy nhất thực hiện quyền xét xử. Tuy nhiên, việc xét xử đó được coi như là một trong các hoạt động tư pháp, Tòa án cũng là một trong các cơ quan thực hiện các hoạt động tư pháp. Ngoài Tòa án thì còn có các cơ quan khác thực hiện các hoạt động tư pháp nên quyền tư pháp được hiểu một cách chung chung, chưa thật sự rò ràng. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020

cũng mới chỉ xác định: “Tòa án là trung tâm và hoạt động xét xử là trọng tâm trong hệ thống tư pháp nước ta” chứ chưa hề có sự khẳng định về nhánh quyền tư pháp. Do sự quy định còn mập mờ như vậy, việc đảm bảo tính độc lập của Tòa án trên thực tế là bài toán khó.

- Trước hết là khả năng Tòa án có thể bị chi phối bởi các cơ quan Đảng.

Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Tòa án được thông qua các Nghị quyết, chủ trương và đường lối đối với hoạt động xét xử. Do đó, sự độc lập của Tòa án vẫn có thể bị ảnh hưởng. Ngoài ra, việc các cấp ủy Đảng trực tiếp quản lý công tác cán bộ, trong đó có việc xem xét, quyết định nhân sự cán bộ lãnh đạo và Thẩm phán Tòa án các cấp càng làm tăng thêm khả năng bị chi phối.

- Thứ hai là khả năng Tòa án có thể bị ảnh hưởng bởi cơ quan lập pháp.

Theo quy định hiện hành, Quốc hội có những vai trò đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án như sau:

+ Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án TANDTC (Khoản 7 điều 84 Hiến pháp 1992).

+ Quốc hội xem xét báo cáo hoạt động của TANDTC về hoạt động xét xử (Khoản 2 Điều 84 Hiến pháp 1992). Cụ thể, Chánh án TANDTC chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước, trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội. Chánh án TAND địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp, trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 135 Hiến pháp 1992 và Điều 16 Luật tổ chức TAND). Ngoài ra, Quốc hội, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội có thể giám sát hoạt động của Tòa án; kể cả giám sát xét xử các vụ án cụ thể;

+ Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của TANDTC nếu các văn bản đó trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội (Khoản 9 điều 84 Hiến pháp 1992).

+ Việc thành lập Tòa án đặc biệt trong tình hình đặc biệt do Quốc hội quyết định (Điều 127 Hiến pháp; Điều 2 Luật Tổ chức TAND).

+ Quốc hội quyết định kinh phí hoạt động của TANDTC, của các TAND địa phương, các TA quân sự (Điều 46 Luật Tổ chức TAND)

+ Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định số lượng Thẩm phán cũng như tổng biên chế của TANDTC, các TAND địa phương, Tòa án quân sự (Điều 42, 45 Luật Tổ chức TAND); chế độ tiền lương, phụ cấp, giấy chứng minh, trang phục đối với cán bộ, công chức ngành Tòa án và chế độ ưu tiên đối với Thẩm phán do (Điều 44 Luật Tổ chức Tòa án). Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quyền yêu cầu Hội đồng Thẩm phán TANDTC xem xét lại các quyết định mà Hội đồng Thẩm phán đã phán quyết;

Với những quy định như trách nhiệm báo cáo và chịu chất vấn của Chánh án Tòa án trước Quốc hội, Hội đồng nhân dân, nhất là về các vụ án cụ thể; Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quyền yêu cầu Hội đồng Thẩm phán TANDTC xem xét lại các quyết định mà Hội đồng Thẩm phán đã phán quyết; giao cho Ủy ban, Hội đồng giám sát các vụ án cụ thể... thì sự độc lập của Tòa án đối với cơ quan lập pháp là khó đảm bảo.

- Thứ ba, khả năng Tòa án có thể bị chi phối bởi cơ quan hành pháp cùng cấp:

Cơ quan hành pháp cùng cấp có thẩm quyền tham gia hoặc quyết định những vấn đề về ngân sách, cơ sở vật chất, điều kiện hoạt động của Tòa án. Do đó dẫn đến một thực tế là, cơ quan Tòa án khó có thể độc lập, mà chịu sự chi phối và lệ thuộc cơ quan hành pháp.

- Thứ tư, khả năng Tòa án có thể bị chi phối bởi mối quan hệ giữa các cấp Tòa án:

Trong hoạt động tố tụng thì mối quan hệ giữa Tòa án các cấp được xác định là Tòa án cấp dưới và Tòa án cấp trên. Tuy nhiên, trên thực tế, ngoài hoạt động tố tụng, trong cơ cấu tổ chức, quản lý vẫn thể hiện mối quan hệ hành chính giữa Tòa án cấp trên và cấp dưới. Do đó, Tòa án cấp tỉnh vẫn có sự ảnh hưởng nhất định đối với Tòa án cấp huyện. Bên cạnh đó, Tòa án cấp sơ thẩm luôn bị đặt trong trạng thái bản án, quyết định của mình có thể bị xét xử theo thủ tục phúc thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị thì sự độc lập của Tòa án cấp sơ thẩm sẽ là khó đảm bảo. Đây chính là nguyên nhân của tình trạng “thỉnh án”, “báo cáo án” hiện nay.

- Thứ năm, khả năng Tòa án có thể bị chi phối bởi các cơ quan thực hiện hoạt động tư pháp khác:

Trong lý luận cũng như thực tiễn nước ta, đang có những nhận thức khác

nhau về cơ quan tư pháp. Theo Hiến pháp 1992 thì dường như Tòa án và VKS được gọi là cơ quan tư pháp; trong các văn bản của Đảng, Nhà nước và trọng thực tiễn thì phạm vi cơ quan tư pháp được quan niệm rộng hơn, coi các cơ quan tiến hành tố tụng là cơ quan tư pháp [13]. Trong thực tiễn tố tụng, vẫn còn hiện tượng CQĐT, VKS cùng cơ quan Tòa án họp bàn thống nhất về đường lối xử lý vụ án trước khi đưa vụ án ra xét xử (họp liên ngành). Thực tiễn này sẽ làm ảnh hưởng đến sự độc lập của Tòa án trong việc xét xử, Tòa án dễ bị chi phối bởi những quan điểm đã được trao đổi, bàn bạc với CQĐT và VKS. Hơn nữa, giữa các cơ quan này dễ tạo ra thực trạng bao che lẫn nhau làm cho phán quyết của Tòa án không hoàn toàn dựa vào nội dung vụ án, không hoàn toàn căn cứ vào ý chí độc lập của HĐXX.

Ngoài ra, việc quy định nguyên tắc VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự tại Điều 23 BLTTHS dẫn đến tình trạng VKS vừa đá bóng, vừa thổi còi. Việc giao cho VKS chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật sẽ dẫn đến tình trạng Tòa án xét xử căn cứ vào “ thái độ, ý chí” của VKS chứ không xuất phát từ ý chí của mình.

3.1.2. Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa được bảo đảm triệt để

Việc ghi nhận quyền bào chữa trong Hiến pháp và BLTTHS cũng n hư sự ra đời của Luật Luật sư năm 2006 cùng với đội ngũ Luật sư ngày càng tăng về số lượng và chất lượng cho thấy nỗ lực lớn của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo đảm nhân quyền này. Tuy vậy, trên thực tế, quyền này bị vi phạm dưới rất nhiều hình thức:

- Đó là việc người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không được thực hiện, thực hiện không kịp thời, không đầy đủ quyền bào chữa. Hiên nay, ở nước ta chỉ có khoảng 15% các vụ án hình sự có sự tham gia của người bào chữa; trong đó có khoảng 8% là do các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định bắt buộc. Một số luật sư non kém tay nghề, thiếu nhiệt tình, làm ảnh hưởng đến chất lượng của việc bào chữa. Với những vụ án mà Luật sư tham gia do chỉ định thì phần lớn các Luật sư đều tham gia phiên tòa một cách chiếu cố, lấy lệ, chưa thực sự nhiệt tình để bảo chữa cho thân chủ.

- Còn nhiều hạn chế trong bảo đảm cho Luật sư thực hiện quyền bào chữa. Hiện nay, vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất trong giới luật sư là vấn đề cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho Luật sư. Theo quy định hiện hành thì người bào chữa được xem xét để cấp giấy chứng nhận người bào chữa trong thời hạn 03 ngày (nếu là bào chữa cho bị can, bị cáo), 24 giờ (nếu là bào chữa cho người bị tạm giữ). Ngoài ra, CQĐT/VKS/Tòa án cũng có quyền từ chối cấp giấy chứng nhận người bào chữa nếu có lý do. Quy định như thế này quả thực là rườm ra, tốn thêm công sức, thời gian cho người bào chữa cũng như kéo dài thời gian được tiếp cận với Luật sư của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

3.1.3. Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội còn nhiều bất cập

Hiện nay vấn đề này được quy định tại chương XXXII của phần thủ tục đặc biệt trong BLTTHS 2003. Tuy nhiên, những quy định cần thiết để bảo đảm quyền lợi cho người chưa thành niên thì chưa đủ đồng thời những quy định đã có thì chưa được thực hiện chuẩn xác.

Điều 302 BLTTHS quy định:

“Những người tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người chưa thành niên”.

Tuy nhiên, quy định này chỉ mang tính hình thức vì trên thực tế, cả CQĐT, VKS và Tòa án đều chưa có lực lượng nhân sự chuyên biệt để tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên.

Mặt khác, trình tự, thủ tục xét xử đối với người chưa thành niên phạm tội vẫn chưa được quy định cụ thể. Cho nên, các phiên tòa xét xử người chưa thành niên cũng giống như với xét xử người đã thành niên, không hề có sự khác biệt nào dù rằng người chưa thành niên cần phải có môi trường xét xử thân thiện hơn. Không những thế, với những vụ án có đồng phạm là người đã thành niên thì các bị cáo cũng bị đưa ra xét xử trong cùng một vụ án và đều cùng tuân thủ một trình tự tố tụng như nhau, không có sự phân biệt nào. BLTTHS có những quy định riêng cho người chưa thành niên phạm tội từ giai đoạn điều tra, truy tố, vậy tại sao tại phiên

tòa lại không thể hiện được những chính sách mà Nhà nước ưu tiên giành cho những đối tượng này? Ngoài ra, BLHS quy định không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội cho thấy rằng việc xử lý người chưa thành niên phạm tội không nhằm mục đích trừng trị mà chủ yếu là để giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Nếu sau khi chấp hành hình phạt mà việc tái hòa nhập trở nên khó khăn, không có cơ hội làm lại cuộc đời dẫn đến ngựa quen đường cũ thì thà phải chịu một mức án nặng ban đầu còn tốt hơn. Để cho việc tái hòa nhập của người chưa thành niên được đảm bảo về sau, thiết nghĩ, các phiên tòa xét xử người chưa thành nên cần phải được xử kín. Khoản 1 điều 307 BLTTHS quy định “Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể quyết định xét xử kín”. Theo tôi, đối với các vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên thì cần phải xét xử kín và tuyên án công khai là được. Việc xét xử kín sẽ tránh cho bị cáo tâm lý nặng nề bị sự phán xét của dư luận. Từ phiên tòa Lê Văn Luyện ta có thể thấy mọi nhất cử nhất động của bị cáo đều bị soi xét đến từng chân tơ, kẽ tóc. Việc hình ảnh của bị cáo bị lan truyền chóng mặt trên các phương tiện thông tin đại chúng làm cho hình ảnh của Lê Văn Luyện tràn ngập khắp mọi nơi, cái tên, khuôn mặt, ánh mắt của Lê Văn Luyện ai cũng biết. Với mức độ phủ sóng như thế thì cơ hội tái hòa nhập xã hội của Luyện sẽ như thế nào, hay rồi sẽ cùng đường tiếp tục lấn sâu vào tội lỗi?

3.1.4. Tình trạng tồn đọng án, án quá hạn luật định:

Hàng năm, số lượng án lưu hạ do các cơ quan tiến hành tố tụng chưa giải quyết kịp thời tương đối lớn. Hàng năm, các Tòa án chỉ xét xử 85% - 90% các vụ án thụ lý trong năm; đặc biệt, nhiều vụ án kéo dài nhiều năm, vi phạm thời hạn theo quy định của BLTTHS.

Ngoài ra, do quy định căn cứ giám đốc thẩm chưa rò ràng, bao gồm cả pháp luật và sự việc, nên nhiều vụ án được xét xử nhiều lần, thậm chí hàng chục lần, kéo dài quá trình xử lý vụ án, gây thiệt thòi cho quyền lợi cũng như tâm lý của người phạm tội, thậm chí có một số trường hợp chết trong thời gian bị tạm giam; việc tạm giam bị kéo dài...

3.1.5. Tình trạng bắt, giam giữ người tùy tiện còn tồn tại

Theo số liệu Điều tra, Truy tố, Xét xử từ 2004 – 2012 của VKSNDTC thì số người tạm giữ được trả tự do vì không phạm tội hoặc xử lý hành chính là 20.073 người. Tuy số liệu này không hoàn toàn phản ánh việc bắt giam giữ tùy tiện nhưng cũng khiến chúng ta đặt một câu hỏi rằng: tại sao CQĐT không cân nhắc việc tạm giữ ngay từ đầu đối với những trường hợp này.

Trên thực tế đã có những trường hợp bắt giam người rất tùy tiện. Đó là vụ việc “con bị xâm hại, mẹ thành bị can” của mẹ con cô giáo Bùi Thị Đức (giáo viên Trường THCS Sơn La, Thành Phố Sơn La, tỉnh Sơn La) xảy ra vào năm 2010. Sau khi con gái thứ hai bị tên Nguyễn Văn Hưởng xâm hại vào tối 27/8/2010, cô Đức đã đồng ý thỏa thuận với gia đình thủ phạm nhận số tiền 130 triệu đồng bồi thường. Đêm 30/8/2010, Hưởng cùng mẹ đẻ và hai anh đến đưa trước 50 triệu đồng. Đêm đó Hưởng và mẹ xin ngủ nhờ lại nhà còn hai người anh quay về nhà để lo tiền. Tuy nhiên, vào tầm 02 giờ sáng ngày 31/8/2010 thì lực lượng Công an Thành phố Sơn La đến nhà chị Đức kiểm tra việc khai báo tạm trú tạm vắng, đưa chị về trụ sở rồi thông báo chị phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” và bắt tạm giam luôn. Khoan hãy nói đến sự vô tội của cô Đức trong trường hợp này mà việc tiến hành bắt tạm giam của Công an Thành phố Sơn La rất tùy tiện, coi nhẹ pháp luật. Không chỉ tiến hành bắt người vào ban đêm mà việc bắt người, việc tạm giam đối với cô Đức không được thông báo cho gia đình, chính quyền địa phương hay trường THCS Sơn La – nơi cô Đức công tác biết. Đồng thời Công an Thành phố Sơn La cũng quên mất quyền lợi chính đáng của bé gái mới bị hãm hại cần có người thân chăm sóc, mà chị Đức là chỗ dựa duy nhất (chồng chị Đức mất sớm, con gái lớn đi học xa nhà).

Tuy việc bắt tạm giam này kịp thời “bị” dừng lại ở ngày thứ 23 nhưng mãi mãi vẫn là một “vết đen” của Công an Thành phố Sơn La khi “phù phép biến” mẹ bị hại thành bị can

3.1.6. Tình trạng tạm giam kéo dài, thời hạn không rò ràng

Tạm giam với ý nghĩa là một biện pháp ngăn chặn được quy định tại Chương VI BLTTHS. Tuy nhiên, thời hạn tạm giam lại được quy định tại bốn chương khác

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí