Sự Cần Thiết Của Việc Hoàn Thiện Pháp Luật Và Các Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Xét Xử Vụ Án Hình Sự

đi lại phực vụ cho công vụ còn thiếu nhiều trang thiết bị khác nhau như bàn ghế làm việc, máy tình, máy phô tô đã cũ và kém chất lượng

Đối với cơ quan Tòa án, trụ sở tòa án không đảm bảo diện tích một số nơi quá chật nên phòng xét xử và phòng làm việc đều có chung một lối và, dẫn đến người tiến hành tố tụng, hội đồng xét xử bị người tham gia tố tụng tấn công trả thù, lăng mạ ngay tại cơ quan tòa án. Những điều kiện cần thiết để đảm bảo cho công việc đấu tranh phòng chống tội phạm của người tiến hành tố tụng là một trong những nguyên nhân khách quan là giảm hiệu quả công việc. Sự thiếu thốn về cơ sở vật chất, phương tiện đáp ứng yêu cầu dấu tranh phòng chống tội phạm làm ảnh hưởng đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiến hành TTHS

Khi đánh giá những nguyên nhân khiếm khuyết trong công tác tư pháp, Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ chính trị đánh giá:

Cơ sở vật chất, điều kiện làm của việc của cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, nhất là ở cấp huyện, nhiều nới trụ sở còn ra chật chội, phương tiện làm việc vừa thiếu lại vừa lạc hậu, chính sách đối với cán bộ tư pháp chưa tương xứng với niệm vụ và chức trách được giao [20].

Nhận định này đã phản ánh đúng thực trạng của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và ở địa bàn tỉnh Đắk Nông nói riêng.

Chương 3

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ

3.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ

Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử là hết sức cần thiết, đáp ứng được những đòi hỏi sau đây:

3.1.1. Tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người nói chung và trong hoạt động xét xử vụ án hình sự nói riêng là đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Trong “Tuyên bố về quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, các nhóm và các tổ chức trong xã hội trong việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người và những tự do cơ bản đã được thừa nhận rộng rãi, 1998”, tại Điều 2 (1) đã tuyên bố rằng: “Mọi quốc gia có trách nhiệm và nghĩa vụ hàng đầu về bảo vệ, thúc đẩy và thực hiện tất cả các quyền con người và những tự do cơ bản…” [22]. Sách trắng về thành tựu quyền con người của Việt Nam đã khẳng định:

… việc bảo đảm và thúc đẩy quyền con người trước hết là trách nhiệm và quyền hạn của mỗi quốc gia. Các quốc gia có trách nhiệm xây dựng hệ thống pháp luật trong nước phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế… để bảo đảm cho người dân được thụ hưởng quyền con người một cách tốt nhất [32, tr.5].

Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự trên cơ sở số liệu của tỉnh Đắk Nông - 11

Bảo vệ và tăng cường hưởng thụ các quyền con người, trong đó có quyền của người bị tước tự do được Đảng và Nhà nước ta xác định là sự nghiệp và nó không tách rời với mục tiêu làm cho mọi người phát triển tự do

và toàn diện. Xuất phát từ quan điểm trên, trong mọi hoạt động, chính sách của mình, nhà nước cần phải hướng vào việc chăm lo cho con người, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người, trong đó có quyền của người bị tước tự do. Trong báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện quyền con người của Việt Nam, chính phủ Việt Nam khẳng định:

Mọi sự phát triển chỉ có ý nghĩa khi nó là của mỗi con người và vì mỗi con người. Khi con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, thì sự tăng trưởng kinh tế, sự phát triển của nguồn lao động, cũng như sự phát triển các lĩnh vực khác của xã hội cũng đều vì mục tiêu phát triển con người và vì hạnh phúc của con người. Chính vì vậy, Nhà nước Việt Nam luôn coi con người là mục tiêu và động lực của sự nghiệp phát triển đất nước. Mọi chính sách phát triển của Việt Nam luôn lấy con người làm trung tâm: phát triển kinh tế vì con người; tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí, bảo vệ và cải thiện môi trường.

Không chỉ được thể hiện ở nhận thức, chính sách như trên, Nhà nước Việt Nam cần phải có những biện pháp cụ thể để hiện thực hóa quan điểm trên. “Mọi quốc gia phải thông qua những biện pháp lập pháp, hành pháp hoặc những biện pháp khác có thể được xem là cần thiết để đảm bảo rằng những quyền và những tự do… được bảo hộ một cách có hiệu quả” [31, tr.35]. Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên đã qui đinh một chương riêng về quyền con người, quyền công dân và đặt ở vị trí thứ hai sau chương chế độ chính trị. Vì vậy, BLTTHS cần phải hoàn thiện việc bảo đảm quyền con người trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án, đặc biệt trong giai đoạn xét xử.

3.1.2. Khắc phục những hạn chế của quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về đảm bảo quyền con người trong hoạt động xét xử

Trong cơ chế bảo đảm quyền con người thì hệ thống pháp luật có vị trí quan trọng do các qui phạm pháp luật là nơi thể hiện rò ràng nhất những tư tưởng tiến bộ về quyền con người bằng biện pháp pháp lý và được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước. Đồng thời, hệ thống pháp luật còn phản ánh sự tương thích giữa chuẩn mực quốc tế về quyền con người với pháp luật quốc gia, là thước đo về mức độ bảo đảm quyền con người của quốc gia ở mỗi thời điểm lịch sử.

Pháp luật TTHS có vai trò và ý nghĩa tích cực trong việc bảo vệ quyền con người suốt những năm qua, đặc biệt từ khi chúng ta thực hiện đổi mới trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Bộ luật TTHS năm 2003 ra đời đã phản ánh xu hướng đổi mới của hệ thống pháp luật bảo vệ quyền con người theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, xây dựng xã hội dân sự. Bộ luật TTHS năm 2003 là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền phát hiện nhanh chóng, kịp thời đối với mọi hành vi phạm tội xâm phạm tới các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời quy định chặt chẽ các thủ tục tố tụng hạn chế tới mức tối đa sự lợi dụng của các cơ quan THTT, người THTT xâm phạm quyền con người trong quá trình giải quyết vụ án. Chính vì vậy mà thời gian qua các vụ án oan, sai đã có chiều hướng giảm, các vụ việc oan, sai được các cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi thường thoả đáng theo tinh thần Nghị quyết 388 và Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước 2010. Tuy nhiên, hiện tượng bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội vẫn còn diễn biến phức tạp, các quyền con người vẫn còn bị xâm phạm gây ra sự thiếu tin tưởng của nhân dân vào hệ thống pháp luật XHCN. Nghị quyết 48 về chiến lược cải cách tư pháp của Bộ Chính trị ban hành ngày 24/5/2005 đã nhận định: “Hệ thống

pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống” và đã chỉ ra nguyên nhân đó “là do chưa hoạch định được một chương trình xây dựng luật toàn diện, tổng thể, có tầm nhìn chiến lược...” [21]. Pháp luật TTHS của chúng ta cũng đang ở tình trạng như vậy nên muốn nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ quyền con người bằng pháp luật TTHS cần phải tiến hành giải pháp mang tính quyết định là hoàn thiện pháp luật TTHS theo hướng khắc phục những hạn chế mà Nghị quyết 48 của Bộ Chính trị đã chỉ ra. Đồng thời pháp luật TTHS cần phải đạt tới sự phù hợp với thực tế của đời sống xã hội, minh bạch, dân chủ trên cơ sở tôn trọng và bảo vệ quyền con người của xã hội dân sự trong điều kiện của Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Cần phải xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng của chiến lược cải cách tư pháp. Xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý cho từng cơ quan, chức danh tư pháp.

3.1.3. Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa

Bên cạnh những thành quả đạt được, thì hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng còn nhiều hạn chế thể hiện ở những khía cạnh sau:

- Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm, còn để xảy ra vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án.

- Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự chưa thực sự bảo đảm dân chủ trong quá trình giải quyết vụ án, quyền con người, quyền công dân chưa được tôn trọng và bảo đảm, oan, sai trong TTHS vẫn xảy ra.

3.1.4. Đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế

Theo quan điểm của cộng đồng quốc tế, các quyền con người, trong đó

có quyền con người trong hoạt động xét xử là những giá trị tự nhiên, vốn có, gắn liền với mọi cá nhân, không phụ thuộc vào bất kỳ chủ thể nào khác. Các nhà nước chỉ có thể thừa nhận (bằng Hiến pháp và pháp luật) các quyền đó như là những giá trị vốn có của mọi cá nhân mà nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ và thúc đẩy chứ không thể ban phát cho công dân các quyền con người. Hiến pháp 1946, các quy định trong chương II thể hiện rất rò vị thế chủ thể quyền của người dân, ví dụ như, tại Điều 7: “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật...” [40]; Điều 11: “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam” [41]Việt Nam là thành viên của công ước quốc tế về quyền con người nên Hiến pháp và pháp luật trong đó có luật TTHS cần phải cụ thể hóa các quyền con người để không chỉ giúp đảm bảo nội dung hiến định phản ánh đúng bản chất của các quyền con người, mà còn nhằm phòng ngừa sự tùy tiện của các CQTHTT, người THTT trong quá trình giải quyết vụ án.

Việt Nam, trước xu thế hội nhập đòi hỏi phải nội luật hóa các qui định của Điều ước quốc tế mà mình tham gia, trong đó có công ước quốc tế về quyền con người.

3.2. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

Pháp luật TTHS có vai trò và ý nghĩa tích cực trong việc bảo vệ quyền con người suốt những năm qua, đặc biệt từ khi chúng ta thực hiện đổi mới trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội. Pháp luật TTHS cần phải đạt tới sự phù hợp với thực tế của đời sống xã hội, minh bạch, dân chủ trên cơ sở tôn trọng và bảo vệ quyền con người của xã hội dân sự trong điều kiện của Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Cần phải xây dựng và hoàn thiện pháp luật TTHS phù hợp với mục tiêu, định hướng của chiến lược cải cách tư pháp. Để bảo vệ quyền con người với định hướng nêu trên cần hoàn thiện pháp luật TTHS ở những bình diện sau đây:

3.2.1. Bổ sung nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử

Quyền được xét xử bình đẳng thể hiện ở sự ngang bằng về quyền giữa các bên trong quá trình tố tụng. Bên buộc tội và bên gỡ tội có quyền như nhau trong việc đưa ra chứng cứ, quan điểm, yêu cầu là những đòi hỏi đầu tiên của công bằng trong xét xử. Đây cũng là yêu cầu của Điều 7 Tuyên ngôn nhân quyền rằng mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng.

Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị đã có chủ trương tiến hành tranh tụng tại phiên toà và chủ trương này đã được thể hiện tại Bộ luật TTHS năm 2003 cũng như tiếp tục được khẳng định tại Nghị quyết 49 về chiến lược cải cách tư pháp. Tuy nhiên, trước yêu cầu cải cách tư pháp, triển khai thi hành Hiến pháp 2013 cần bổ sung nguyên tắc “bảo đảm việc tranh tụng trong xét xử”. TTHS tranh tụng có ưu việt là ít làm oan người vô tội, các quyền con người được tôn trọng, các cơ quan THTT ít có cơ hội lạm dụng công vụ để xâm hại tới quyền con người. Những đặc điểm ưu việt này của tố tụng tranh tụng phù hợp với điều kiện của xã hội dân sự và Nhà nước pháp quyền mà chúng ta đang xây dựng và hướng tới. Với quan điểm này, chúng ta sẽ phải xây dựng lại toàn bộ Bộ luật TTHS năm 2003 vào một thời gian thích hợp mà Nghị quyết 48 đang định hướng tạo những tiền đề cần thiết của tố tụng tranh tụng

Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; đảm bảo chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại phiên toà làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án và Nghị quyết 49 đã chỉ rò: Hoàn thiện các thủ tục tư pháp, đảm bảo tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.

Lựa chọn mô hình TTHS nào trong quá trình thực hiện cải cách tư pháp là một vấn đề quan trọng, cơ bản và được nhiều người quan tâm. Có ý kiến cho rằng để thực hiện yêu cầu về cải cách tư pháp mà Nghị quyết 08- NQ/TW và Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị đặt ra thì cần phải chuyển hoạt động tố tụng hiện hành sang kiểu tố tụng tranh tụng một cách triệt để. Ý kiến này dựa trên những ưu điểm của tố tụng tranh tụng và xu thế chuyển đổi sang mô hình TTHS tranh tụng của một số quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng: Thứ nhất, mỗi mô hình tố tụng hình (thẩm vấn hay tranh tụng) đều có một cách thức tổ chức nhà nước tương ứng phù hợp. Thứ hai, mô hình tố tụng tranh tụng bên cạnh những ưu việt còn có hạn chế là tốn kém, kéo dài, dễ bỏ lọt tội phạm, việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm ít có hiệu quả hơn so với mô hình tố tụng thẩm vấn, người nghèo ít có cơ hội hơn trong việc sử dụng công cụ pháp lý trước Tòa án... những hạn chế này tồn tại trong chính cách thức và sự vận hành của mô hình tố tụng tranh tụng. Vì thế, chúng ta không thể tiếp thu một cách máy móc cả những ưu điểm và hạn chế của mô hình tố tụng này mà không có sự chọn lọc. Thứ ba, thực tiễn giải quyết vụ án và thực trạng về đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, luật sư chưa đáp ứng đòi hỏi của mô hình tố tụng tranh tụng. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể giữ nguyên mô hình tố tụng hình hiện tại. Trong số các nghiên cứu những năm gần đây ở Việt Nam về vấn đề này không một ai nêu ra quan điểm giữ nguyên mô hình TTHS hiện hành, dù trực tiếp hay gián tiếp các ý kiến đều cho rằng cần có sự đổi mới. Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi cho rằng lựa chọn mô hình TTHS thẩm vấn tiếp thu những điểm tiến bộ, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý nước ta của mô hình TTHS tranh tụng vào thời điểm hiện nay là hợp lý. Lựa chọn mô hình TTHS theo hướng này kế thừa, phát huy những ưu điểm của TTHS truyền thống của Việt Nam, tiếp thu những điểm tiến bộ,

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí