đối với chỉ dẫn địa lý
Thứ nhất, các quy định pháp luật về thực thi quyền sở hữu công nghiệp cần được hoàn thiện hơn nữa để tạo sự thống nhất và khả thi.
Theo đánh giá của các đối tác quan trọng trong các quan hệ kinh tế quốc tế hiện nay, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng pháp luật về sở hữu trí tuệ, nhưng vấn đề thực thi là một điểm yếu cần phải khắc phục. Về xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và vi phạm pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ngày càng có dấu hiệu trở thành phổ biến và mức độ phức tạp và nghiêm trọng của tình hình xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ngày càng có dấu hiệu gia tăng. Các thiết chế hỗ trợ thực thi quyền sở hữu trí tuệ chưa thật sự vào cuộc. Nhiều tổ chức hiệp hội chưa nhận thức được sự cần thiết phải đứng ra bảo vệ quyền lợi của các thành viên, ý thức chấp hành pháp luật của phần lớn nhân dân trong xã hội chưa cao...
Để hoàn thiện pháp luật thực thi sở hữu trí tuệ, theo tôi, có thể thực hiện một số giải pháp sau:
- Hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong pháp luật hành chính:
Mặc dù, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử lý bằng biện pháp hành chính trong Luật Sở hữu trí tuệ khá hoàn chỉnh, tuy nhiên cần khắc phục một số tồn tại sau:
Phải có sự thống nhất giữa Luật Sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh trong việc xác định luật áp dụng để xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ. Giữa khoản 2, Điều 56 Luật Cạnh tranh 2005 và Khoản 3, Điều 211 Luật Sở hữu trí tuệ chưa thống nhất trong việc xác định thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Trong khi Khoản 3, Điều 211 Luật Sở hữu trí tuệ quy định "Tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật cạnh tranh", nhưng tại Khoản 2, Điều 56 Luật cạnh tranh
2005 lại xác định "Việc giải quyết vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh (trong đó có hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ) thực hiện theo quy định của Luật cạnh tranh và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính". Như vậy, Luật Sở hữu trí tuệ xác định thẩm quyền giải quyết hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ chỉ do cơ quan cạnh tranh giải quyết, nhưng Luật cạnh tranh 2005 lại xác định thêm vai trò của cơ quan giải quyết hành chính khác theo pháp luật xử lý vi phạm hành chính. Việc quy định không thống nhất này sẽ tạo ra sự không đồng bộ khi áp dụng pháp luật dẫn đến các hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ có thể được xử lý khác nhau khi căn cứ vào hai đạo luật khác nhau nhưng lại có giá trị pháp lý như nhau về hiệu lực thực thi.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Chỉ Dẫn Địa Lý Bằng Biện Pháp Kiểm Soát Biên Giới
- Thống Kê Số Đơn Chỉ Dẫn Địa Lý Đã Nộp Từ Năm 2000 - 2008
- Thực Trạng Xâm Phạm Và Xử Lý Xâm Phạm Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Chỉ Dẫn Địa Lý
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý theo pháp luật Việt Nam - Ninh Thị Thanh Thủy - 17
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
Việc áp dụng theo Luật Sở hữu trí tuệ sẽ loại bỏ luật áp dụng và thẩm quyền của các cơ quan giải quyết vi phạm quyền sở hữu trí tuệ khác khi xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu trí tuệ, tuy nhiên, việc giải quyết này nếu được áp dụng theo Luật cạnh tranh năm 2005 sẽ tạo ra sự kết hợp trong việc áp dụng luật cạnh tranh và pháp luật xử lý vi phạm hành chính về sở hữu trí tuệ, giữa cơ quan cạnh tranh và cơ quan chuyên môn về giải quyết vi phạm quyền sở hữu trí tuệ trong việc giải quyết hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ. Mỗi một phương án có những điểm thuận lợi và hạn chế, tuy nhiên, nếu nhìn tổng thể thì việc cơ quan cạnh tranh ở nước ta còn rất mới, hệ thống pháp luật về cạnh tranh chưa hoàn chỉnh, hơn nữa trên thực tiễn việc xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ là rất khó.
Tại các Điều 39, Điều 40, Điều 41, Điều 45, Điều 46 Luật cạnh tranh 2005 quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nếu xác định các hành vi này là cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ thì phải được xem xét thêm dưới góc độ pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ để xác định các yếu tố cấu thành của hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực cạnh tranh. Do đó, nên bổ sung quy định trong
Khoản 3, Điều 211 Luật Sở hữu trí tuệ như sau: Tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật cạnh tranh và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Việc bổ sung này sẽ không đồng thời áp dụng cả hai biện pháp xử lý trong luật cạnh tranh và pháp luật xử lý vi phạm hành chính để giải quyết đối với một hành vi vi phạm. Nếu đã áp dụng biện pháp chế tài trong luật cạnh tranh thì thôi áp dụng chế tài trong pháp luật xử lý vi phạm hành chính, mà chủ yếu là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền căn cứ xác định vi phạm và áp dụng chế tài thích hợp.
- Hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong pháp luật dân sự:
Rút gọn thủ tục nhằm giảm bớt những phiền hà, tốn kém trong việc giải quyết theo pháp luật tố tụng dân sự các tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp; cần tham khảo một số biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ ở một số nước trên thế giới để áp dụng phù hợp với thực tiễn và điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam.
- Hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong pháp luật hình sự:
Cần ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật hình sự liên quan đến việc xét xử các vụ án hình sự về xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
- Hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp kiểm soát biên giới:
Cần có các quy định cụ thể về quyền hành động mặc nhiên của lực lượng Hải quan trong quá trình thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới và mức phí chủ thể quyền phải nộp khi đăng ký yêu cầu cơ quan Hải quan kiểm tra, giám sát về sở hữu trí tuệ nhằm khuyến khích việc ngăn chặn các hành vi xâm phạm hơn là xử lý các hành vi xâm phạm đã được thực hiện.
Thứ hai, các chỉ dẫn địa lý chỉ có thể được bảo hộ đầy đủ và hiệu quả nếu chúng được bảo hộ bổ sung đồng thời bởi pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh. Điều đó có nghĩa là bên cạnh việc hoàn thiện những quy định pháp luật về bảo hộ chỉ dẫn địa lý, chúng ta phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa và pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh chẳng hạn như các quy định, hướng dẫn chi tiết về việc đăng ký nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu tập thể.
Luật Sở hữu trí tuệ chỉ quy định về các tài liệu yêu cầu trong hồ sơ đơn yêu cầu cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận nhưng chưa quy định về các nội dung cụ thể cần phải có của các tài liệu trong hồ sơ xin đăng ký; trình tự, thủ tục, các công việc phải thực hiện khi thẩm định các đơn xin đăng ký các loại nhãn hiệu này. Theo quy định hiện hành, Cục Sở hữu trí tuệ vẫn phải dựa vào các quy định về việc thẩm định đối với đơn nhãn hiệu thông thường để xét nghiệm các đơn đăng ký nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu tập thể mặc dù bản chất của các loại nhãn hiệu này là rất khác nhau. Điều này sẽ gây lúng túng, khó khăn không chỉ cho người nộp đơn trong quá trình hoàn thiện hồ sơ xin đăng ký mà đối với cả Cục Sở hữu trí tuệ khi tiến hành xét nghiệm đơn.
3.3. Đề xuất một số giải pháp tăng cường hiệu quả bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), do đó, các chỉ dẫn địa lý của Việt Nam được hưởng sự bảo hộ ở 149 nước thành viên khác của WTO. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có chỉ dẫn địa lý nào của Việt Nam được đăng ký bảo hộ ở nước ngoài. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các chủ thể quyền đối với chỉ dẫn địa lý của Việt Nam cũng cần sớm xúc tiến việc đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở những nước là thị trường tiềm năng, đặc biệt là ở những nước có đông người Việt Nam định cư, sinh sống như Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Nga… Việc đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở nước ngoài một mặt nhằm bảo vệ, quảng
bá uy tín, danh tiếng và chuẩn bị các điều kiện để thương mại hóa các đặc sản của Việt Nam, mặt khác giúp phòng ngừa khả năng tiếm đoạt chỉ dẫn địa lý (trước đây đã xảy ra trường hợp chỉ dẫn địa lý Phú Quốc của Việt Nam đã bị một doanh nghiệp Thái Lan đăng ký nhãn hiệu ở Pháp).
Để tạo bước đột phá trong bảo hộ chỉ dẫn địa lý, chúng ta cần có sự nỗ lực của cả các cơ quan nhà nước cũng như của các chủ thể có quyền và lợi ích gắn liền với chỉ dẫn địa lý.
Thứ nhất, Nhà nước tạo cơ chế hỗ trợ việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Điều đó không có nghĩa là Nhà nước sẽ làm thay cho doanh nghiệp hoặc người dân trong các công việc về lập hồ sơ đăng ký hay quản lý việc khai thác, bảo vệ chỉ dẫn địa lý. Nhà nước sẽ đầu tư nghiên cứu để xây dựng những mô hình chuẩn cho việc thiết lập hồ sơ đăng ký chỉ dẫn địa lý cũng như mô hình quản lý sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Ngay cả các chỉ dẫn địa lý đã được đăng ký, việc hoàn thiện cơ chế quản lý sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý tương ứng cũng là yếu tố then chốt để bảo đảm việc bảo hộ thật sự có hiệu quả. Nhà nước có cơ chế thông thoáng để tạo điều kiện và khuyến khích thành lập các hiệp hội ngành nghề sản xuất, kinh doanh sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý.
Kinh nghiệm một số nước cho thấy quản lý chỉ dẫn địa lý thông qua các hiệp hội là phương thức có hiệu quả nhất, bởi đó chính là tổ chức đại diện cho quyền lợi của những người sản xuất, kinh doanh sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý do chính họ thành lập ra và quản lý. Nhà nước bảo đảm việc bảo vệ có hiệu quả quyền đối với chỉ dẫn địa lý bằng các công cụ pháp luật. Các hành vi giả mạo chỉ dẫn địa lý phải được ngăn chặn và xử lý kịp thời. Chỉ khi làm được như vậy thì những hoạt động trên của Nhà nước mới có ý nghĩa.
Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý nhà nước, các cấp cần phải tiến hành tuyên truyền, phổ biến cho người dân về những lợi ích của việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý, quyền lợi và trách nhiệm của họ trong việc bảo vệ một loại tài sản thuộc sở hữu nhà nước mà họ là những người được ủy quyền khai thác và quản lý.
Thứ hai, chúng ta có nhiều sản phẩm có tiềm năng phát triển chỉ dẫn địa lý. Tuy nhiên, việc phát triển chỉ dẫn địa lý vẫn chưa được tiến hành một cách bài bản và chưa đem lại hiệu quả như mong muốn bởi vì đây là vấn đề mới, nhận thức, khả năng của các nhà sản xuất Việt Nam còn hạn chế, sự quan tâm, đầu tư, hỗ trợ của nhà nước chưa nhiều. Vì vậy, để hoạt động phát triển chỉ dẫn địa lý được hiệu quả, bên cạnh chính sách hỗ trợ của nhà nước thông qua các chương trình, dự án cụ thể cần nâng cao nhận thức của các nhà sản xuất để họ chủ động và có ý thức tự nguyện tham gia vào phát triển chỉ dẫn địa lý và các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương cũng cần phát huy vai trò của mình trong việc chủ động đầu tư, hỗ trợ, hướng dẫn các nhà sản xuất phát triển chỉ dẫn địa lý.
Các chủ thể có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý phải hiểu rõ được lợi ích và tham gia tích cực đầy đủ vào việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý có mang lại hiệu quả thật sự hay không phụ thuộc chủ yếu vào những người trực tiếp sử dụng chỉ dẫn địa lý đó. Các chủ thể có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý cần hiểu rằng chỉ dẫn địa lý là tài sản có giá trị, phải được quản lý và khai thác có hiệu quả để phục vụ trước hết cho lợi ích của chính mình.
Thứ ba, các hiệp hội ngành nghề phải thể hiện đầy đủ vai trò là người đại diện cho các chủ thể sản xuất, kinh doanh để họ có thể khai thác chỉ dẫn địa lý một cách hiệu quả nhất. Cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của hiệp hội phải bảo đảm mục tiêu quản lý có hiệu quả chỉ dẫn địa lý thay vì việc tạo ra một thể chế gánh nặng cho những người có quyền sử dụng đối tượng này. Các nước châu Âu đã rất thành công trong mô hình hiệp hội ngành nghề và chúng ta có thể học hỏi những kinh nghiệm quý báu đó rồi áp dụng phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Các hiệp hội cũng phải có những động thái chủ động, tích cực phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo vệ chống lại các hành vi giả mạo chỉ dẫn địa lý.
Tổ chức tập thể của các nhà sản xuất, kinh doanh có thể được thành lập dưới dạng hợp tác xã, hội, hiệp hội. Do nhận thức hạn chế của các nhà sản
xuất, cần có sự hỗ trợ, tư vấn của các cơ quan quản lý nhà nước (về khoa học và công nghệ, về ngành sản xuất sản phẩm, về các tổ chức phi chính phủ, các hiệp hội...) cụ thể là Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Nội vụ địa phương trong việc vận động thành lập, xây dựng hồ sơ xin phép thành lập, tổ chức đại hội đại biểu và các thủ tục khác để công nhận tổ chức của các nhà sản xuất.
Thứ tư, cần có sự phân định một cách rõ ràng, cụ thể giữa hoạt động quản lý nội bộ của tổ chức tập thể và hoạt động quản lý từ bên ngoài của các cơ quan quản lý nhà nước. Trong quá trình vận hành hệ thống quản lý nội bộ việc sử dụng chỉ dẫn địa lý, tổ chức của các nhà sản xuất chưa thể tự mình xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế, quy trình, hệ thống tổ chức quản lý. Vì vậy, các cơ quan quản lý nhà nước cần hỗ trợ về phương pháp luận, kỹ thuật và kinh phí để tổ chức tập thể các nhà sản xuất có thể thực hiện chức năng của mình.
Tổ chức tập thể các nhà sản xuất, kinh doanh sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý cần có cơ cấu tổ chức và thẩm quyền phù hợp với tính chất của từng loại sản phẩm cũng như điều kiện riêng của địa phương. Các nhà sản xuất, kinh doanh sản phẩm cần phải được tham gia quá trình xây dựng và phê chuẩn các cơ chế, quy trình, hệ thống tổ chức kiểm soát vì họ chính là những người hiểu biết về sản phẩm của mình và biết là các biện pháp kiểm soát đưa ra có thực tế và áp dụng được hay không và họ chính là người sẽ áp dụng các cơ chế, quy trình kiểm soát đó.
Thứ năm, tiếp tục hoàn thiện bộ máy thực thi sở hữu trí tuệ như tạo ra tính định hướng, thống nhất trong hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ; tạo cơ sở pháp lý trong quan hệ giữa chủ thể hưởng quyền và các cơ quan thực thi có thẩm quyền; tăng cường hoạt động của Hải quan, Bộ đội biên phòng trong việc kiểm tra, ngăn chặn hàng hóa xuất, nhập khẩu liên quan quyền sở hữu trí tuệ; các cơ quan thuế, cảnh sát kinh tế, cảnh sát biển, an ninh văn hóa phải có nhiệm vụ phát hiện các vi phạm về quyền sở hữu trí tuệ thông qua hoạt động
chuyên môn, nghiệp vụ của mình, chuyển các vụ việc này cho các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm; hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tăng cường tổ chức bộ máy, biên chế của các cơ quan quản lý Nhà nước về quyền sở hữu trí tuệ từ Trung ương đến địa phương; chuẩn bị việc tổ chức các tòa án chuyên trách để xét xử các vụ án tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ; củng cố và phát triển hệ thống hỗ trợ thực thi quyền sở hữu trí tuệ; đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại cho hệ thống các cơ quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ để các cơ quan này tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm minh kịp thời đối với các vi phạm.
Thứ sáu, chú trọng tới công tác đào tạo và nâng cao trình độ của cán bộ các cơ quan thực thi cũng như cơ quan bảo vệ pháp luật về sở hữu công nghiệp. Từng bước kiện toàn đội ngũ cán bộ tham gia hoạt động xét xử, tiến tới việc xem xét khả năng thành lập những phân ban chuyên xét xử về sở hữu trí tuệ trong hệ thống Tòa án.
Thứ bảy, đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm nâng cao năng lực về vật chất, kỹ thuật và con người tham gia các hoạt động về bảo hộ chỉ dẫn địa lý và nâng cao sự hiểu biết chung của toàn xã hội về chỉ dẫn địa lý. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng nên sớm xúc tiến đàm phán các điều ước quốc tế song phương về công nhận và bảo hộ chỉ dẫn địa lý với các nước là thị trường tiềm năng của nông sản Việt Nam; đồng thời tăng hợp tác trong lĩnh vực chỉ dẫn địa lý với các nước như Thụy Sĩ (chương trình hợp tác đặc biệt giữa Việt Nam và Thụy Sĩ trong phát triển chỉ dẫn địa lý), Pháp (đã hỗ trợ tốt Hiệp hội sản xuất gạo Hải Hậu đăng ký chỉ dẫn địa lý "Hải Hậu" cho gạo tại Việt Nam)...