Theo Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2003

người” được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp. Từ hai nguyên tắc này, Hiến pháp 1992 ghi nhận một số quyền con người nói chung và quyền con người trong TTHS nói riêng cũng như cơ chế đảm bảo thực thi các nguyên tắc đó trong thực tế.

Các quyền con người trong TTHS được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 gồm:

- Quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 52)

- Quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 71)

- Quyền được suy đoán vô tội: thực chất là sự ghi nhận nội dung chính của quyền (Điều 72)

- Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở và đời sống riêng (Điều 73)

- Quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 74)

- Quyền được xét xử bởi một Tòa án độc lập (Điều 130)

- Quyền bào chữa (Điều 132)

Tuy nhiên, các quyền con người trên được thể hiện trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, chứ không được xem xét quyền con người như bản chất vốn có của nó.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

Ngoài việc ghi nhận những quyền con người cụ thể như trên thì Hiến pháp 1992 còn quy định cơ chế thực hiện quyền. Các quyền con người trong TTHS được bảo đảm bằng hệ thống các cơ quan là Công an nhân dân, VKSND và TAND, trong đó các quy định về VKSND và TAND khá rò nét và cụ thể. Theo quy định của Hiến pháp 1992 thì “VKSND thực hành quyền công tố” (Điều 137), “TAND là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam” (Điều 127). Và cả hai hệ thống cơ quan này đều có chung nhiệm vụ là “bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân” (Điều 126). Đặc biệt, ngoài việc quy định các nguyên tắc xét xử thì Hiến pháp còn quy định về cơ cấu tổ chức hoạt động của hệ thống TAND và VKSND nhằm đảm bảo việc xét xử được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện; so sánh với pháp luật quốc tế và một số quốc gia khác thì phải thừa nhận rằng với những quy định như hiện nay về

Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự - 4

quyền con người thì Hiến pháp 1992 còn nhiều hạn chế. Tuy vậy, với những thành quả đã đạt được thì có thể nói rằng Hiến pháp 1992 về cơ bản là đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử, đã giải quyết được những vấn đề quan trọng đương thời, bước đầu tạo nên sự chuyển biến về nhận thức về quyền con người. Quyền con người không còn bị coi là sản phẩm của chủ nghĩa cá nhân hay là công cụ chính trị như trước nữa mà được thừa nhận một cách khách quan hơn, là sự kết tinh của nền văn minh nhân loại, là một giá trị lớn của toàn thế giới [1]

Các quyền con người quy định trong Hiến pháp đã được cụ thể hóa tương đối đầy đủ trong các văn bản pháp luật của Việt Nam. Tính từ năm 1986 đến năm 2002, Việt Nam đã ban hành 13.000 văn bản quy phạm pháp luật các loại, trong đó có hơn 40 Bộ luật và Luật, trên 120 Pháp Lệnh, gần 850 văn bản của Chính phủ và trên 3000 văn bản của các bộ, ngành đã được thông qua và thực thi. Riêng trong năm 2004, Quốc hội đã thảo luận và thông qua 13 luật và 8 pháp lệnh trong các lĩnh vực khác nhau [6]

Trong lĩnh vực TTHS, các văn bản quan trọng đã được ban hành như BLHS, BLTTHS, Luật tổ chức TAND, Luật tổ chức VKSND… kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Trong các văn bản trên, BLTTHS có vai trò đặc biệt quan trọng.

2.1.2. Theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2003

BLTTHS 2003 được thông qua ngày 26/11/2003 là văn bản pháp luật TTHS được hệ thống hóa ở mức cao nhất, điều chỉnh toàn bộ quá trình TTHS, là nguồn chủ yếu, cơ bản và quan trọng nhất của pháp luật TTHS nước ta.

Cũng như các văn bản luật khác thì BLTTHS 2003 có những quy định phù hợp với Hiến pháp 1992.

2.1.2.1. Quy định về các nguyên tắc cơ bản:

Trên tinh thần Hiến pháp 1992, BLTTHS 2003 quy định các nguyên tắc cơ bản tại chương II với 30 điều, từ điều 3 đến điều 32, trong đó đã có những nguyên tắc quan trọng để đảm bảo quyền con người. Tuy nhiên, cũng như Hiến pháp 1992, BLTTHS 2003 quy định quyền con người thể hiện trong mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân.

- Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong TTHS (Điều 3)

Pháp chế là nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và của mọi cá nhân. Trong TTHS, nguyên tắc bảo đảm pháp chế là nguyên tắc bao trùm, được thể hiện trong toàn bộ các hoạt động TTHS, là cơ sở cho các nguyên tắc TTHS khác. Nội dung nguyên tắc này được quy định tại điều 3 BLTTHS: “Mọi hoạt động TTHS của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này”. Nguyên tắc này đòi hỏi:

+ Các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng phải tuân thủ các quy định của BLTTHS trong quá trình giải quyết vụ án.

+ Mọi hành vi tố tụng, quyết định tố tụng phải dựa trên các quy định của BLTTHS.

Thực hiện nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong TTHS là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức và công dân nhưng trước tiên và chủ yếu nhất vẫn là trách nhiệm của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng. Thực hiện nguyên tắc này sẽ đảm bảo mọi hành vi phạm tôi đều được xử lý trước pháp luật; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, bảo đảm các quyền lợi hợp pháp của công dân.

- Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (Điều 4)

Tôn trọng và bảo vệ các quyền con người vừa là bản chất, vừa là mục tiêu của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng thời nó cũng được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng của BLTTHS. Nội dung nguyên tắc này quy định:

+ Các chủ thể có trách nhiệm thực hiện nguyên tắc này: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó viện trưởng VKS, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm.

+ Khi tiến hành tố tụng các chủ thể trên phải có các nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Mọi hành vi, quyết định tố tụng

liên quan đến các quyền cơ bản của công dân phải được tiến hành trên cơ sở các quy định của pháp luật.

+ Các chủ thể trên phải thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng; kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết.

BLTTHS và một số văn bản liên quan đến tổ chức, hoạt động của TAND, VKSND, CQĐT trong Công an nhân dân đã có những quy định cụ thể làm cơ sở pháp lý khá đầy đủ và chặt chẽ cho việc thực hiện nguyên tắc này. Đó là các quy định về quyền cơ bản của công dân, quy định về căn cứ, thủ tục áp dụng các biện pháp TTHS, quy định trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng…

- Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật (Điều 5)

Sự bình đẳng trước pháp luật được hiểu là sự thể hiện ở vị trí như nhau của mọi công dân trong mọi lĩnh vực của hoạt động nhà nước và xã hội mà không có sự ưu tiên, ưu đãi, phân biệt đối xử với bất cứ đối tượng nào. BLTTHS ghi nhận nguyên tắc này tại Điều 5, đồng thời thể hiện qua một số nguyên tắc khác như: Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án (Điều 19), Tiếng nói và chữ viết dùng trong TTHS (Điều 24)

Nguyên tắc này quy định bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo theo một trình tự, thủ tục tố tụng như nhau theo quy định của BLTTHS; bất cứ người nào thực hiện hành vi phạm tội đều phải chịu trách nhiệm hình sự theo các điều khoản tương ứng của BLHS, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Nghĩa là công dân ở địa vị pháp lý như nhau thì có quyền và nghĩa vụ tố tụng như nhau và cơ quan có thẩm quyền phải đảm bảo cho công dân thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng đó để bảo vệ quyền và lợi ích của mình.

- Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân (Điều 6), Nội dung nguyên tắc này quy định:

Thứ nhất, không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của VKS, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Nghĩa là Tòa án hoặc

VKS là hai cơ quan có thẩm quyền cuối cùng trong việc bắt người, trừ trường hợp phạm tội quả tang thì bất kì ai cũng có quyền bắt. Điều 80 BLTTHS quy định Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT có quyền ra lệnh bắt người, nhưng lệnh đó phải được VKS cùng cấp phê chuẩn thì mới có hiệu lực thi hành. Điều 81 BLTTHS cũng quy định Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp; người chỉ huy quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở biên giới, hải đảo; người chỉ huy tàu bay, tàu biển có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp; tuy nhiên, trong thời gian 24 giờ mà lệnh bắt khẩn cấp không được VKS cùng cấp phê chuẩn thì người bị bắt được trả tự do;

Thứ hai, việc bắt và giam người phải theo quy định của BLTTHS.

Để tránh sự lạm dụng, vi phạm pháp luật trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, BLTTHS đã quy định một cách cụ thể, chặt chẽ các căn cứ, thẩm quyền và thủ tục áp dụng, đặc biệt là đối với biện pháp bắt và giam, giữ người. Qua đó loại bỏ và hạn chế được việc bắt, giam giữ người tùy tiện.

Thứ ba, nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, dùng nhục hình trong hoạt động TTHS. Việc truy bức, dùng nhục hình trong TTHS không chỉ xâm phạm sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm người tham gia tố tụng, mà còn làm cho hoạt động tố tụng bị sai lệch, ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án.

- Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân” (Điều 7),

Theo nguyên tắc này thì công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật. Ngoài ra, nguyên tắc này còn nhấn mạnh đến việc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm tài sản của người bị hại, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác cũng như những người thân thích của họ. Sự đảm bảo này ngoài ý nghĩa bảo đảm quyền con người cho những người được thụ hưởng trực tiếp còn có một ý nghĩa quan trọng khác là góp phần làm cho quá trình tố tụng được xem xét khách quan. Sự bảo đảm này sẽ tạo cho những nhân chứng, những người có

quyền lợi và nghĩa vụ liên quan yên tâm, khai ra những thông tin chính xác, không chịu sức ép từ bên đối lập.

- Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân (Điều 8)

Nguyên tắc này quy định không ai được xâm phạm chỗ ở, thư tín, điện thoại, điện tín của công dân một cách tùy tiện. Việc khám xét chỗ ở, khám xét, tạm giữ và thu giữ thư tín, điện tín phải có căn cứ, đúng thẩm quyền, đúng thủ tục.

Căn cứ để có thể khám xét chỗ ở là khi có căn cứ để nhận định tại chỗ ở có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc khi cần phát hiện người đang bị truy nã (khoản 1 Điều 140 BLTTHS)

Căn cứ để có thể khám xét thư tín, điện thoại, điện tín của công dân là khi cần phải thu thập tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án (khoản 1 Điều 140 BLTTHS).

Việc khám xét này chỉ được thực hiện khi người ra lệnh có thẩm quyền, đó là: Viện trưởng, Phó viện trưởng VKSND và Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó chánh án TAND và Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó chánh tòa Tòa phúc thẩm TANDTC; Hội đồng xét xử; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp. Nếu là trường hợp lệnh khám xét do Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp ra lệnh thì phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Nếu trong trường hợp không thể trì hoãn thì Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp có quyền ra lệnh khám xét trước nhưng trong vòng 24h kể từ khi khám xét xong người ra lệnh phải thông báo bằng văn bản cho VKS cùng cấp biết.

Ngoài ra, trong trường hợp không thể trì hoãn thì những người sau cũng có quyền khám: Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Sau 24h kể từ khi khám xét xong, người ra lệnh phải thông báo bằng văn bản cho VKS cùng cấp biết.

BLTTHS cũng quy định cụ thể thủ tục khám chỗ ở; thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín của công dân tại các Điều 143, 144.

Theo đó, khi khám chỗ ở phải có mặt người chủ hoặc người đã thành niên trong gia đình, có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng. Nếu người chủ và người trong gia đình cố tình trốn tránh, vắng mặt lâu ngày mà việc khám xét không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính quyền và hai người láng giềng chứng kiến. BLTTHS cũng quy định không được khám chỗ ở vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rò lý do vào biên bản. Khi bắt đầu khám thì phải đọc lệnh khám, đưa lệnh cho người phải thực hiện lệnh khám đọc, giải thích cho người đó và những người có mặt biết quyền và nghĩa vụ của họ. Người tiến hành khám phải yêu cầu đương sự đưa ra nhưng đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án, nếu đương sự từ chối thì tiến hành khám.

Còn việc thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín tại bưu điện thì người thi hành lệnh phải thông báo cho người phụ trách cơ quan bưu điện hữu quan trước khi tiến hành thu giữ. Khi tiến hành việc thu giữ phải có đại diện của cơ quan bưu điện chứng kiến và ký xác nhận vào biên bản. Cơ quan ra lệnh thu giữ phải thông báo cho người có thư tín, điện thoại, điện tín biết. Nếu việc thông báo cản trở điều tra thì sau khi hết sự cản trở, cơ quan ra lệnh thu giữ phải thông báo ngay.

- Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 9)

Đây là nguyên tắc quan trọng thể hiện sự bảo đảm về quyền con người và tính nhân đạo trong các hoạt động TTHS. Nội dung của nguyên tắc này bao gồm:

+ Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền kết tội và áp dụng hình phạt đối với một người khi có căn cứ bằng một bản án hợp pháp và có hiệu lực pháp luật.

+ Một người chỉ phải chịu hình phạt khi bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật

+ Mọi nghi ngờ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử phải được giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội.

Như vậy, khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội vẫn được xem là vô tội. Vì thế, cho đến khi bản án kết tội có hiệu lực phạm luật thì người bị buộc tội phải được đối xử như một công dân bình thường

trong phạm vi có thể. Mọi biện pháp hạn chế quyền con người của người bị buộc tội phải là sự lựa chọn cuối cùng và vì mục đích ngăn chặn tội phạm chứ không phải để trừng trị họ.Việc tạm giữ, tạm giam với ý nghĩa là biện pháp ngăn chặn phải được thực hiện theo chế độ giam, giữ khác với việc chấp hành hình phạt tù.

Qua đây, ta thấy hoạt động xét xử của Tòa án có vai trò quan trọng và quyết định đến việc kết tội một người, vì chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền này. Điều này đòi hỏi hoạt động xét xử phải tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật; việc ra phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của các bên tham gia tố tụng.

- Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 11)

Nội dung của nguyên tắc này quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Quyền bào chữa của những đối tượng này phải được CQĐT, VKS, Tòa án bảo đảm. Sự bảo đảm đó được cụ thể hóa tại Điều 56 – 58 BLTTHS, cụ thể như sau:

Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa cho bị can, bị cáo; trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa cho người bị tạm giữ thì CQĐT/VKS/Tòa án phải xem xét cấp giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rò lý do.

Ngoài ra, với trường hợp bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại BLHS hoặc bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không mời người bào chữa thì CQĐT, VKS hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn Luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình.

- Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc người tham gia tố tụng (Điều 14).

Sự vô tư trong TTHS là một đòi hỏi quan trọng để quá trình giải quyết vụ án

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí