bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào, 1988” có những quy định rất cụ thể về quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện, đó là:
- Việc bắt giữ, giam hay cầm tù chỉ được thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật một cách nghiêm ngặt và bởi những quan chức có thẩm quyền hay những người được ủy quyền thực hiện việc đó (nguyên tắc 2).
- Bất kỳ hình thức giam hay cầm tù nào và tất cả các biện pháp ảnh hưởng đến quyền con người của một người đang bị giam hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào phải được ra lệnh bởi, hoặc chịu sự kiểm soát có hiệu quả của cơ quan xét xử hoặc cơ quan có thẩm quyền khác (nguyên tắc 4).
- Các nhà chức trách bắt giữ một người nào đó, tạm giam người đó hoặc điều tra vụ án chỉ được phép thực hiện những quyền hạn được giao cho họ theo pháp luật, và việc thực hiện các quyền hạn này phải chịu sự giám sát của cơ quan xét xử hay cơ quan có thẩm quyền khác (nguyên tắc 9).
- Việc bắt giữ phải có lệnh với các nội dung cụ thể theo nguyên tắc 12.
Đồng thời, văn kiện này cũng quy định rất rò ràng và cụ thể các quyền của người bị bắt giữ: quyền được thông báo về lý do bị bắt giữ, quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ, quyến được phiên dịch miễn phí, quyền liên lạc với thế giới bên ngoài, quyền bào chữa, quyền bảo đảm về sức khỏe, quyền khiếu nại, quyền được suy đoán vô tội, quyền được bồi thường thiệt hại nếu bị giam giữ tùy tiện, quyền được phát biểu về sự đối xử trong khi bị giam trước cơ quan xét xử hoặc có thẩm quyền … [23, 697]
Ngoài ra, Các quy tắc chuẩn, tối thiểu của Liên hợp quốc về những biện pháp không giam giữ (Các quy tắc Tokyo), 1990 cũng quy định việc tránh giam giữ tiền xét xử như sau:
“6.1. Giam giữ trước khi xét xử được sử dụng như phương án cuối cùng trong quá trình TTHS, khi xét thấy cần thiết cho việc điều tra hành vi bị coi là phạm tội và cần thiết để bảo vệ xã hội và các nạn nhân.
6.2. Những biện pháp khác ngoài biện pháp giam giữ trước khi xét xử phải được áp dụng càng sớm càng tốt. Thời gian giam giữ trước khi xét xử không được
lâu hơn thời gian cần thiết để đạt được những mục tiêu nêu trong quy tắc 5.1 và phải được tiến hành một cách nhân đạo, tôn trọng nhân phẩm vốn có của con người.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự - 1
- Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự - 2
- Theo Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự 2003
- Quy Định Về Các Biện Pháp Ngăn Chặn
- Quy Định Về Quyền Của Người Bị Buộc Tội Trong Tths:
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
6.3. Người phạm tội có quyền kháng án lên TA hoặc một cơ quan độc lập có thẩm quyền khác trong các trường hợp biện pháp giam giữ trước khi xét xử được áp dụng” [23; 752]
Pháp luật Việt Nam quy định quyền này tại Điều 71 Hiến pháp và Điều 6, 7 BLTTHS đồng thời có sự quy định rò ràng về các biện pháp ngăn chặn để hạn chế tới mức thấp nhất sự tùy tiện trong việc bắt, giam giữ người. Nội dung của quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện theo Luật Nhân quyền quốc tế và Pháp luật Việt Nam đều gồm: không được bắt giữ người người không có căn cứ; bắt giữ người không đúng thẩm quyền, bắt giữ người không đúng thủ tục; bắt người, giam giữ người chưa cần thiết. Tuy nhiên, Luật Nhân quyền quốc tế nhấn mạnh đến quy định thời gian giam giữ không được kéo dài. Và chế độ giam giữ phải khác với chế độ thi hành án phạt tù, đảm bảo đến mức tối đa việc hạn chế các quyền con người của người bị giam giữ.
Quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện là cốt lòi của tự do và an toàn cá nhân. Nếu quyền tự do và an toàn cá nhân của con người không được đảm bảo một cách hiệu quả thì việc bảo vệ các quyền cá nhân khác sẽ dễ bị tổn thương và không thực tế. Khi nhân quyền này bị vi phạm thì sẽ kéo theo một số hệ quả là các nhân quyền khác cũng có nguy cơ bị ảnh hưởng theo như quyền không phân biệt đối xử; quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của người bị tước tự do; quyền tự do đi lại, cư trú; quyền được tự do tín ngưỡng…[22]
Tuy vậy, trong TTHS, quyền này vẫn có nguy cơ bị vi phạm khi các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp ngăn chặn một cách tùy tiện, nhất là khi áp dụng biện pháp bắt người, tạm giữ và tạm giam để điều tra, truy tố và xét xử.
1.2.2. Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục
UDHR và ICCPR lần lượt ghi nhận quyền này tại Điều 5 (UDHR) và Điều 7 (ICCPR) vào năm 1948 và 1966 nhưng lại không đưa ra một định nghĩa rò ràng về
“tra tấn”. Phải đến năm 1984 thì Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm (CAT) mới đưa ra khái niệm về tra tấn như sau:
“Thuật ngữ “tra tấn” có nghĩa là bất kỳ hành vi nào cố ý gây đau đớn hoặc đau khổ nghiêm trọng về thể xác hay tinh thần cho một người, vì những mục đích như lấy thông tin hoặc lời thú tội từ người đó hay một người thứ ba, hoặc để trừng phạt người đó vì một hành vi mà người đó hay người thứ ba thực hiện hay bị nghi ngờ đã thực hiện, hoặc để đe dọa hay ép buộc người đó hay người thứ ba, hoặc vì bất kỳ một lý do nào khác dựa trên sự phân biệt đối xử dưới mọi hình thức, khi nỗi đau đớn và đau khổ đó do một công chức hay người nào khác hành động với tư cách chính thức gây ra, hay với sự xúi giục, đồng tình hay ưng thuận của một công chức. Khái niệm tra tấn không bao gồm những đau đớn hoặc đau khổ xuất phát từ, gắn liền với, hoặc có liên quan đến, các biện pháp trừng phạt hợp pháp”.
Tuy nhiên, CAT cũng nêu rò nội hàm của khái niệm trên được căn cứ vào mục đích của Công ước là để cuộc đấu tranh chống tra tấn và đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm được hiệu quả hơn [23, 148]
Điều 5 UDHR ghi nhận: “Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm” [23, 49]
Điều 7 ICCPR nói rằng:
“Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm. Đặc biệt, không ai có thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y học hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó” [23, 80]
Ở phiên họp lần thứ 16, 1982, HRC/UNHRC đã giải thích về Điều 7 ICCPR tại Bình luận chung số 7. Trong phiên họp thứ 39, 1990, Ủy ban đã phản ánh, phát triển và thay thế Bình luận chung số 7 bằng Bình luận chung số 20 với các nội dung cơ bản như sau:
- Mục đích của Điều 7 ICCPR: bảo vệ phẩm giá và sự toàn vẹn về thể chất và tinh thần của cá nhân.
- Không có giới hạn quyền đối với các quy định trong Điều 7 ICCPR, kể cả trong tình trạng khẩn cấp quốc gia.
- Nội hàm của các khái niệm nêu trong Điều 7 ICCPR (tra tấn, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo, hạ nhục) căn cứ vào bản chất, mục đích và tính chất nghiêm trọng của hành động đã thực hiện.
- Phạm vi ngăn cấm: các hành động gây ra đau đớn về thể chất lẫn tinh thần; các hành động nhục hình, đánh đập tàn nhẫn để trừng phạt tội phạm hay để giáo dục, rèn luyện đối với học sinh, bệnh nhân.
- Việc kéo dài thời gian biệt giam hoặc tù giam một người, kể cả người đã bị kết án tử hình mà không có lý do chính đáng cũng bị coi là hành động tra tấn. Việc thi hành án tử hình phải thực hiện theo cách thức làm giảm đến mức tối thiểu sự đau đớn về thể xác và tinh thần cho tử tù. [21; 287]
Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào, 1988 cũng quy định tại nguyên tắc 6 là:
“Không người nào bị giam hoặc cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào bị tra tấn hay đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân phẩm. Không được viện dẫn bất kỳ hoàn cảnh nào để biện minh cho việc tra tấn hay đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm” [23; 698]
Pháp luật Việt Nam quy định quyền này tại các Điều 71, 72 Hiến pháp; Điều 6, 7, 9 BLTTHS và các chương XII, XXII BLHS cũng chính là sự khẳng định về mặt pháp lý về bảo vệ quyền không bị tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay bị hạ nhục.
Như vậy, quyền này có thể bị vi phạm ở nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng trong TTHS là rò nét nhất, đặc biệt là tại giai đoạn điều tra khi việc truy bức, dùng nhục hình người bị nghi ngờ phạm tội có thể được sử dụng như là cách nhanh nhất để lấy lời khai người bị buộc tội…
1.2.3. Quyền được xét xử nhanh chóng, không bị trì hoãn
Điểm c khoản 3 Điều 14 ICCPR quy định: “Người bị buộc tội được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý”
Nguyên tắc 38 Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào, 1988 quy định: “Một người bị giam do bị
cáo buộc phạm tội hình sự phải có quyền được xét xử trong một khoảng thời gian hợp lý hoặc được trả tự do trong thời gian chờ xét xử”
Quy tắc Bắc Kinh, 1985 cũng quy định việc tránh trì hoãn không cần thiết: “Mỗi vụ án phải được xét xử nhanh chóng ngay từ đầu, không được có bất kỳ sự trì hoãn không cần thiết nào” (Quy tắc 20).
Bình luận chung số 32 tại phiên họp thứ 19, 2007 của UNHRC cũng xác định tại Điều 27:
“Một khía cạnh của phiên tòa công khai là tính chất nhanh chóng. Vấn đề xét xử không chậm trễ trong TTHS được đề cập trong khoản 3c Điều 14, theo đó sự chậm trễ trong thủ tục tố tụng không thể biện minh bởi sự phức tạp của vụ án hoặc những hành vi của các bên là trái với nguyên tắc xét xử công bằng theo đoạn 1 của Điều 14. Trong trường hợp chậm trễ này là do thiếu nguồn lực thì cần bổ sung ngân sách cho thực thi pháp luật” [21, 367]
Quyền này có một ý nghĩa quan trọng trong TTHS vì việc áp dụng pháp luật không chỉ cần đúng đắn mà còn phải kịp thời. Nếu công lý không được thực hiện kịp thời thì cũng không còn nhiều ý nghĩa. Trước hết đối với quyền lợi của những người bị hại thì rò ràng là vụ án càng kéo dài càng bị ảnh hưởng (trừ trường hợp có sự thỏa thuận bồi thường giữa các bên trong vụ án). Ngoài ra, tâm lý theo đuổi vụ án kéo dài cũng rất mệt mỏi, ảnh hưởng đến cuộc sống, công việc hàng ngày của những người tham gia tố tụng. Sau đó, chính bản thân những người bị tình nghi phạm tội, những người bị buộc tội cũng bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng. Đó là những trường hợp như do sự chậm trễ của hoạt động tư pháp mà nhiều người bị bắt, tạm giữ, tạm giam sau nhiều ngày mới được xác định là vô tội và được trả tự do. Ngay cả người bị buộc tội có bị kết án đi chăng nữa thì việc chờ đợi quá lâu một hình phạt đối với mình cũng bị xem là một hành động tra tấn [21, 287]. Những trường hợp này, dù có được giải quyết đúng người, đúng tội đi chăng nữa thì các giá trị khác mà pháp luật cần bảo vệ cũng bị tổn hại nặng nề. Tuy vậy, trong thực tiễn tố tụng, do nhiều nguyên nhân khác nhau, quyền này vẫn đã và đang bị vi phạm. Không chỉ là việc kéo dài thời gian xét xử dẫn tới việc gia hạn, án quá hạn mà còn
có tình trạng án kéo dài năm này qua năm khác khi vụ án bị điều tra, xét xử lại theo thủ tục chung.
1.2.4. Quyền được xét xử công bằng
Đây thực chất là một tập hợp các đảm bảo tố tụng nhằm bảo đảm quá trình xét xử được công bằng, gồm: Bình đẳng trước Tòa án; Được xét xử bởi một Tòa án độc lập, không thiên vị, công khai; Được suy đoán vô tội; Không bị áp dụng hồi tố; Không hình sự hóa vụ án dân sự. Trong một số tài liệu thì mỗi bảo đảm này được coi như là một quyền con người cụ thể [22; 168]
Quyền này được đề cập tại Điều 10 UDHR (quyền được xét xử công bằng và công khai) và Điều 11 UDHR (quyền được suy đoán vô tội, không hình sự hóa vụ án dân sự, không bị áp dụng hồi tố). Hai Điều này được tái quy định trong ICCPR tại các Điều 11 (không hình sự hóa vụ án dân sự); Điều 14 (quyền được xét xử công bằng; quyền được suy đoán vô tội; quyền được xét xử bởi một Tòa án độc lập, không thiên vị); Điều 15 (không bị áp dụng hồi tố).
Ở phiên họp lần thứ 21, 1984, HRC/UNHRC đã giải thích về Điều 14 ICCPR tại Bình luận chung số 13. Sau này, Bình luận chung số 13 được thay thế bằng Bình luận chung số 32 tại phiên họp thứ 19, 2007 với các nội dung như sau:
- Mục đích của Điều 14 ICCPR: bảo đảm công lý và làm tiền đề bảo đảm một số quyền cụ thể trong đó.
- Bản chất của Điều 14: là một tập hợp các bảo đảm tố tụng nhằm bảo đảm quá trình xét xử được công bằng (quyền bình đẳng trước phiên tòa và Tòa án; quyền được xét xử công bằng và tranh tụng trước một Tòa án độc lập, không thiên vị; quyền của người bị cáo buộc hình sự; quyền của người chưa thành niên; quyền kháng cáo; quyền được bồi thường oan sai,…).
- Các quốc gia thành viên Công ước có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện các bảo đảm tố tụng quy định ở Điều 14.
- Các quốc gia thành viên Công ước có thể bảo lưu một số bảo đảm cụ thể ở Điều 14 nhưng không được bảo lưu chung về quyền được xét xử công bằng…
- Từ Điều 7 đến Điều 57: Ủy ban giải thích rò ràng và cụ thể về nội hàm của
các tập hợp tố tụng nêu trong Điều 14 ICCPR.
- Từ Điều 58 đến Điều 65, Ủy ban bình luận về mối liên hệ giữa Điều 14 ICCPR và các quy định khác của Công ước. [21, 379]
Về Điều 11 và 15 ICCPR thì cho đến nay, HRC/UNHRC chưa đưa ra bình luận chung nào.
Trong Pháp luật Việt Nam, quyền này được thể hiện bằng nhiều quy định trong Hiến pháp và BLTTHS. Pháp luật Quốc tế và Pháp luật Việt Nam đều ghi nhận quyền xét xử công bằng là quyền cơ bản của người bị buộc tội trước cơ quan tiến hành tố tụng. Đây là một nhân quyền cơ bản và có tính phổ quát cao. Một phiên tòa công bằng là yếu tố thiết yếu để bảo đảm các quyền cơ bản khác của con người như quyền sống, quyền tự do thân thể, quyền tự do ngôn luận …
Tuy nhiên, để có một phiên tòa công bằng thì cũng cần phải đảm bảo bởi rất nhiều yếu tố. Và do đó, trong thực tế, quyền này dễ bị vi phạm dưới nhiều hình thức khác nhau.
Chương 2
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ
LUẬT NHÂN QUYỀN QUỐC TẾ
2.1. Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự theo Pháp luật Việt Nam
Các quy định để bảo đảm quyền con người trong TTHS được thể hiện tập trung và rò ràng nhất tại Hiến pháp và BLTTHS cũng như các văn bản liên quan đến hoạt động của TAND và VKSND. Tuy nhiên, trong phần này, chúng tôi chỉ đi phân tích các quy định của Hiến pháp 1992 và BLTTHS 2003.
2.1.1. Theo Hiến pháp 1992
Hiến pháp 1992 được thông qua vào ngày 15/4/1992, được sửa đổi vào ngày 25/12/2001. Hiến pháp 1992 ra đời trong bối cảnh những năm đầu đất nước thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đề ra và để thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991. Hiến pháp 1992 với vai trò là đạo luật gốc đã thực hiện tốt sứ mệnh lịch sử, tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nhiều thành tựu to lớn trong quá trình phát triển của đất nước đã diễn ra trên nền tảng mà Hiến pháp 1992 tạo ra.
Về vấn đề quyền con người, quyền công dân, Hiến pháp 1992 đã có sự ghi nhận về quyền con người tại chương V từ điều 49 - 82 (tăng 05 điều so với Hiến pháp 1980). Hiến pháp 1992 đã ghi nhận hai nguyên tắc quan trọng là:
“Các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” (Điều 50)
“Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân” (Điều 51)
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, cụm từ “quyền con