Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự trên cơ sở số liệu của tỉnh Đắk Nông - 13

quyền bào chữa cũng như nhờ người khác bào chữa, Cơ quan điều tra hoặc điều tra viên cần giải thích quyền cơ bản này cho họ và nói rò cho họ biết về quyền im lặng đưa cho họ danh sách luật sư thuộc địa phương sở tại để cho bị can lựa chọn một cách minh bạch…

Thứ năm, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án của luật sư trong giai đoạn quyết định truy tố có ý nghĩa hết sức quan trọng, có thể hạn chế được các vi phạm về thủ tục tố tụng hoặc oan sai trong việc kết tội bị can, bị cáo. Thực tế chứng minh, nếu kiểm sát viên tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia giai đoạn này, việc tiến hành lập Cáo trạng và xác lập các căn cứ truy tố bảo đảm căn cứ vững chắc hơn, tránh tình trạng khiếu kiện hơn. Ngoài việc đơn giản hóa thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho luật sư (như trong giai đoạn điều tra), Viện kiểm sát cần cho phép luật sư đọc, ghi chép, photocopy hồ sơ vụ án và giải quyết các yêu cầu đề xuất của luật sư về chứng cứ, giám định, tiến hành phúc cung, giám định lại và giám định bổ sung, tổ chức đối chất, v.v… Trong giai đoạn sau khi kết thúc điều tra, chuẩn bị lập cáo trạng truy tố, luật sư có quyền vào trại tạm giam gặp mặt và làm việc với bị can mà không có bất cứ sự hạn chế hoặc giám sát nào, không có mặt điều tra viên, kiểm sát viên và giám thị trại tạm giam. Ngoài ra, luật sư có quyền được nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát và các thông tin liên quan việc giải quyết vụ án.

Thứ sáu, cần quy định cụ thể về việc bảo đảm sự bình đẳng thật sự trong tranh tụng tại phiên tòa giữa kiểm sát viên và luật sư (đồng thời nghiên cứu quy định mẫu trang phục thống nhất của luật sư, dành cho luật sư vị trí ngồi tương xứng với công tố viên tại phiên tòa). Khi có luật sư tham dự phiên tòa, cần phải coi đánh giá của Tòa án về quan điểm pháp lý của luật sư trong bản án như một tiêu chí của một bản án có hiệu lực pháp luật, đồng thời là một tiêu chí của bản án điển hình khi thiết lập cơ sở dữ liệu tin học cho chế định án lệ về sau này.

Thứ bảy, hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự đối với những đối tượng yếu thế trong tố tụng hình sự Luật tố tụng hình sự hiện hành không có qui định khác biệt nào về quyền bào chữa đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án là người nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng, người già cô đơn, người tàn tật, trẻ em không nơi nương tựa, người nước ngoài. Vì vậy, ngoài những qui định chung về quyền bào chữa cần có qui định khác biệt cho những đối tượng dễ bị tổn thương này, có như vậy mới thực sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Trong số các đối tượng dễ bị tổn thương, thì trường hợp người bị tạm giữ, bị can bị cáo là người chưa thành niên phạm tội vẫn chưa có sự bảo đảm tốt để họ thực hiện quyền bào chữa.

3.2.6. Hoàn thiện pháp luật về việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự

Bên cạnh nguyên tắc “Bồi thường cho người bị oan trong tố tụng hình sự” của BLTTHS 2003, việc ra đời của “Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước” thì việc xác định oan, sai và bồi thường thiệt hại do oan trong TTHS đã hình thành một hệ thống văn bản khá đầy đủ điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực này, tạo cơ sở pháp lý cho việc minh oan và bồi thường thiệt hại cho người bị oan do các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây ra, góp phần thực hiện yêu cầu của chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta. Có thể khẳng định quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự của người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật là một trong những nguyên tắc hiến pháp và là nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự có vai trò định hướng trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự của các CQTHTT góp phần tích cực vào việc bảo vệ quyền con người. Tuy nhiên, để đáp ứng việc bảo đảm quyền con người trong điều kiện hiện nay cần hoàn thiện qui định của pháp luật theo hướng sau:

Thứ nhất, bên cạnh việc qui định trách nhiệm chứng minh tội phạm cần bổ sung trách nhiệm minh oan của CQTHTT, người THTT trong toàn bộ quá trình phát hiện, kiểm tra, đánh giá chứng cứ ở các giai đoạn tố tụng hình sự. Bổ sung qui định này sẽ tăng cường trách nhiệm của các CQTHTT trong việc hạn chế oan, sai và minh oan cho người bị oan.

Thứ hai, Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước 2009 đã khắc phục phần lớn những hạn chế của Nghị quyết 388, tuy nhiên cũng cần tiếp tục hoàn thiện những nội dung về phạm vi bồi thường thiệt hại khắc phục giới hạn quá hẹp so với các trường hợp được coi là “oan” trong tố tụng hình sự.

3.3. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC

3.3.1 Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức cho Thẩm phán

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

- Thực tế ở Đắk Nông, đội ngũ thẩm phán còn ít về số lượng và hạn chế về năng lực, phẩm chất. Vì vậy, ngành Tòa án cần có kế hoạch để xây dựng đủ số lượng Thẩm phán, đáp ứng đủ nhu cầu công việc đặt ra. Nếu trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của Thẩm phán dù có giỏi đến đâu nhưng số lượng Thẩm phán quá ít sẽ dẫn áp lực, quá tải trong công việc, dẫn đến chất lượng giải quyết các vụ án sẽ không cao, ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

- Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán: Đánh giá chung, đội ngũ Thẩm phán hiện nay nói riêng và công chức có chức danh tư pháp nói chung còn " thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ". Trong một thời gian dài, chúng ta chưa có chiến lược đào tạo, sử dụng đội ngũ Thẩm phán có hiệu quả. Đa số Thẩm phán được đào tạo chắp vá về chuyên môn, chưa được đào tạo nghề mà chỉ làm việc theo kinh nghiệm đơn thuần. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn trên, việc đào tạo nghề nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm phán là nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết.

Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự trên cơ sở số liệu của tỉnh Đắk Nông - 13

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2 tháng 1 năm 2002 của Bộ Chính trị đã nêu bật nhiệm vụ: "đổi mới công tác đào tạo cán bộ có chức danh tư pháp phải có trình độ đại học luật và được đào tạo về kỹ năng nghề nghiệp tư pháp theo chức danh" [20]. Chính vì vậy, việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho Thẩm phán là vô cùng quan trọng. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển nền kinh tế thị trường, nhiều tội phạm mới trong các lĩnh vực đã xuất hiện. Do đó cần phải đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng xét xử các vụ án hình sự trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là các tội phạm tham nhũng, chứng khoán, công nghệ thông tin, tài chính ngân hàng… Ngoài ra cần thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức hội thảo, trao đổi, nghiệp vụ cho Thẩm phán.

- Về đạo đức của người Thẩm phán: Đạo đức người Thẩm phán là đạo đức mang tính cá nhân đồng thời mang những giá trị độc đáo vĩnh hằng, chân chính và tiến bộ của đạo đức xã hội. Người Thẩm phán với lẽ sống cao đẹp, luôn phấn đấu để cố gắng làm giảm bớt và tiến tới loại bỏ nỗi đau khổ hoặc bất hạnh ra khỏi đời sống con người, sẽ có khả năng vượt qua khó khăn, sẵn lòng hy sinh lợi ích cá nhân, khắc phục mất mát trong nghề nghiệp, thì sẽ tất yếu vươn lên trong cuộc sống, vươn lên trong sự nghiệp và góp phần tạo nên vẻ đẹp cao quý của người thẩm phán. Nói đến đạo đức người Thẩm phán thì đầu tiên phải nói đến phẩm chất trung thực, phẩm chất tôn trọng lẽ phải, tôn trọng sự thật khách quan, tôn trọng chân lý trong cuộc sống. Người Thẩm phán có trung thực thì mới có dũng cảm để bảo vệ lẽ phải, có trung thực thì mới không bảo thủ cứng nhắc trong giải quyết công việc được giao.

3.3.2. Đảm bảo các điều kiện cần thiết cho hoạt động của Thẩm phán và cán bộ tòa án

- Về điều kiện làm việc của Thẩm phán: Hiện nay nhiều địa phương

Thẩm phán làm việc trong điều kiện khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn. Để đảm bảo được hoạt động của Thẩm phán, trong thời gian tới cần tăng cường hơn nữa cơ sở vật chất cho ngành Tòa án. Cụ thể như xây dựng mới, sửa chữa các trụ sở làm việc đã quá cũ, xuống cấp; đảm bảo phòng làm việc cho Thẩm phán và các phương tiện phục vụ cho hoạt động của Thẩm phán như máy vi tính, bàn làm việc... Ngoài ra cần bố trí hội trường xét xử rộng rãi, được trang trí thể hiện tính trang nghiêm của phiên tòa. Cần có các thiết bị phục vụ cho việc xét xử tại phiên tòa như loa, đài, micrô, hệ thống ghi âm, ghi hình, truyền thanh và truyền hình cho đông đảo nhân dân theo dòi.

- Về tiền lương đối với Thẩm phán: Chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức ngành Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng còn chưa thực sự tương xứng với tính chất công việc đặc thù của ngành Tòa án. Chế độ tiền lương đối với Thẩm phán còn thấp nên chưa thể hiện đúng sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động xét xử và yêu cầu công tác phòng chống tham nhũng và cải cách tư pháp; chưa có tác dụng khuyến khích, động viên cán bộ, công chức Tòa án yên tâm công tác, tận tụy với nghề, nâng cao tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ nhân dân, phấn đấu rèn luyện tu dưỡng đạo đức; chưa phải là bảo đảm hữu hiệu để Tòa án thực hiện nguyên tắc "Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật".

Chính vì vậy, việc đổi mới chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân cần được cải tiến nhằm khuyến khích Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân tận tâm, tận lực, yên tâm, gắn bó với ngành và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống tham nhũng.

3.3.3. Nâng cao trình độ năng lực, trách nhiệm nghề nghiệp và số lượng Kiểm sát viên, Luật sư

Kiểm sát viên và luật sư là những người góp phần quan trọng vào quá

trình giải quyết vụ án, bảo đảm quyền con người trong quá trình tố tụng nên trình độ năng lực, trách nhiệm nghề nghiệp và số lượng Kiểm sát viên, Luật sư cũng phải được tăng cường.

3.3.3.1. Đối với Kiểm sát viên

Trong những năm qua, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chỉ đạo toàn ngành tổng kết về lý luận và thực tiễn 50 năm xây dựng và hoạt động của ngành, rút ra những bài học thiết thực về hoàn thiện tổ chức bộ máy, đào tạo cán bộ để nâng cao chất lượng thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành.

Trên cơ sở thực trạng về đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên được đã được Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 chỉ ra “Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một số bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp” [22]. Để nâng cao chất lượng cán bộ, đòi hỏi:

Cán bộ kiểm sát phải tự học tập nâng cao trình độ năng lực, rèn luyện ý thức chính trị. Kiểm sát viên phải tinh thông về nghiệp vụ, nắm vững pháp luật, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như những chủ trương, nghị quyết của Đảng liên quan đến công tác của ngành kiểm sát.

Tăng cường tuyển dụng, bổ sung cán bộ có năng lực, trình độ chuyên môn về làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Cần có kế hoạch tổng thể về việc sắp xếp, bố trí, luân chuyển, điều động cán bộ, KSV phù hợp với đặc thù, tính chất, số lượng các vụ án của từng địa phương.

Chú trọng việc giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên. Thường xuyên tổ chức học tập bằng cách nghiên cứu các chuyên đề nghiệp vụ: nâng cao chất lượng trả hồ sơ điều tra bổ sung, nâng

cao chất lượng cáo trạng, kỹ năng xét hỏi, kỹ năng luận tội, kỹ năng tranh tụng, kỹ năng kháng nghị phúc thẩm... Tiến hành thảo luận, rút kinh nghiệm từ công tác nghiên cứu và công tác thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng công tác. Thường xuyên tổ chức cuộc thi Kiểm sát viên giỏi tại các VKS địa phương và chọn những Kiểm sát viên đạt kết quả cao trong cuộc thi tại địa phương dự thi Kiểm sát viên giỏi trong toàn ngành, tuyển chọn những sát viên tiêu biểu trong số những Kiểm sát viên giỏi, từ đó tạo động lực cho cán bộ học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, rèn luyện bản lĩnh trong công tác, làm gương cho cán bộ, Kiểm sát viên khác học tập, làm theo.

3.3.3.2. Đối với Luật sư: Cần tăng về số lượng nhất là những địa bàn vùng sâu, xa như Đắk Nông, đoàn Luật sư tỉnh chỉ có 17 người thì không thể đáp ứng được yêu cầu tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án, bảo đảm được quyền của bị can, bị cáo. Đồng thời với việc tăng cường số lượng cần quan tâm đến chất lượng, chế độ đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, thi tuyển phải bảo đảm các tiêu chuẩn về năng lực và đạo đức nghề nghiệp của Luật sư; chế độ miễn cho những người tiến hành tố tụng (Thẩm phán, Kiểm sát viên, điều tra viên và các đối tượng khác) cũng phải có tiêu chí cụ thể chứ không phải ai cũng được miễn như quy định hiện nay. Cần có quy định bảo vệ Luật sư khi hành nghề, đồng thời xử lý nghiêm minh đối với Luật sư vi phạm pháp luật và đạo đức nghề nghiệp.

KẾT LUẬN


Xét xử là nhân danh nhà nước, căn cứ vào pháp luật của nhà nước để đưa ra các phán quyết về một vụ án cụ thể. Đây không phải là phán quyết của bản thân một tòa án nào đó, lại càng không phải là phán quyết của cá nhân trong bộ máy tòa án hay một người có chức, có quyền nào đó mà là phán quyết thể hiện trực tiếp thái độ của nhà nước đối với các vụ án cụ thể. Như vậy, hoạt động xét xử phản ánh trực tiếp và sâu sắc bản chất của nhà nước và cú vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người. Vì thế, đòi hỏi xét xử phải chính xác, công minh trong việc vận dụng và áp dụng pháp luật, thể hiện được ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Các bản án và quyết định xét xử của tòa án là nhân danh nhà nước, thể hiện hiệu lực của một văn kiện nhà nước. Vì thế, nhà nước phải chịu trách nhiệm về sự không chính xác hoặc sai lầm của những bản án hay quyết định đó gây ra. Chất lượng các phán quyết của Tòa án được đảm bảo hay không phụ thuộc rất nhiều vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Trước yêu cầu đổi mới toàn diện của đất nước và thực tiễn công tác cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế, bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay đòi hỏi cần phải đổi mới và nâng cao hơn nữa chất lượng xét xử của tòa án.

Qua việc nghiên cứu luận văn đã giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án theo luật tố tụng hình sự Việt Nam trên các bình diện sau:

- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử hình sự, để xây dựng nên khái niệm quyền con người trong xét xử; khái niệm và ý nghĩa bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử; nội dung và cơ chế bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử; các giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử.

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí