Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV AIDS ở Việt Nam - 2

Có thể nói ở Việt Nam hiện nay, các tài liệu nghiên cứu về quyền con người của người nhiễm HIV/AIDS còn chưa phổ biến, đặc biệt là quyền của phụ nữ. Các bài nghiên cứu chủ yếu mới dừng lại ở việc đưa ra thực trạng cũng như những khó khăn mà phụ nữ gặp phải trước đại dịch HIV/AIDS như bài “Phụ nữ và trẻ em gái Việt Nam trước đại dịch HIV/AIDS” hay bài “Phụ nữ và HIV/AIDS – đương đầu với khủng hoảng” của tác giả Trần Tiến Đức đăng trên tạp chí Lao động và xã hội số 271 năm 2005 hay cuốn “Sức khỏe sinh sản và tình dục đối với phụ nữ sống chung với HIV/AIDS” do tác giả Lê Anh Tuấn chủ biên. Các bài viết này mới chỉ phân tích ở khía cạnh các vấn đề xã hội mà phụ nữ có HIV/AIDS gặp phải chứ chưa phân tích vấn đề phụ nữ có HIV/AIDS dưới góc độ quyền con người. Hay các bài viết về phòng ngừa lây nhiễm HIV đối với phụ nữ trên thế giới và ở Việt Nam như bài “Ngăn ngừa nhiễm HIV ở phụ nữ và trẻ em gái trên thế giới”của tác giả Nguyễn Trần Hiển trên tạp chí Lao động xã hội số 271 năm 2005, bài “Vấn đề nhiễm HIV/AIDS trong các gia đình” của tác giả Khuất Thu Hồng đăng trên tạp chí Lao động xã hội số 289 năm 2006. Đặc biệt bài viết “Quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS” của tác giả Hoàng Mai Hương và Chu Thị Thúy Hằng đăng trên tạp chí Khoa học về phụ nữ số 3 năm 2006 đã đề cập đến quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, tuy nhiên bài viết chưa đi sâu phân tích các quyền cụ thể và cơ sở của việc bảo đảm các quyền này và cũng chưa đề cập đến các giải pháp nhằm bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.

Gần đây Viện nghiên cứu quyền con người đã phát hành ấn phẩm “HIV/AIDS và quyền con người” trong đó một phần cuốn sách đã phân tích cơ sở pháp luật, chính trị, đạo đức của việc bảo đảm quyền con người trong bối cảnh HIV/AIDS và đảm bảo quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương trong bối cảnh HIV/AIDS trong đó có đối tượng là phụ nữ. Tuy nhiên, cuốn sách chưa đi sâu phân tích toàn diện các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS trên cơ sở các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam.

Với mục đích trên cơ sở nghiên cứu các cam kết quốc tế, các quy định của pháp luật quốc tế về quyền con người và quy định của pháp luật Việt Nam để thấy

được các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS được ghi nhận và bảo đảm thực thi, vì vậy tài liệu này là một tài liệu tham khảo quan trọng giúp tác giả hoàn thành luận văn này.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Mục đích của luận văn: Nghiên cứu một cách tổng quát các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS được ghi nhận trong các công ước quốc tế về quyền con người và trong các quy định của pháp luật Việt Nam từ đó đề xuất các giải pháp mang tính pháp lý để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật Việt Nam với các quy định của pháp luật quốc tế về quyền con người của phụ nữ và đưa ra các giải pháp thực tiễn để thực thi có hiệu quả hơn nữa các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.

Nhiệm vụ của luận văn: Để thực hiện mục đích trên của luận văn, tác giả đưa ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:

Nghiên cứu khái quát về HIV/AIDS và các tác động xã hội của HIV/AIDS. Phân tích các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS

Phân tích các bảo đảm về chính trị, về kinh tế và bảo đảm bằng pháp luật đối với phụ nữ có HIV/AIDS.

Phân tích rò cơ sở pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.s

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Đánh giá thực trạng của việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp pháp luật và biện pháp thực tiễn về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.

4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV AIDS ở Việt Nam - 2

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ.

Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, nhận xét, đánh giá để làm rò các vấn đề cần nghiên cứu.

5. Những nét mới của luận văn

Phân tích các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS, phân tích những bảo đảm về chính trị, bảo đảm về pháp luật và bảo đảm về kinh tế trong việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ.

Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, qua đó đánh giá tính tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế đồng thời đánh giá thực trạng của việc đảm bảo các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam hiện nay và đề xuất các giải pháp pháp lý cũng như những giải pháp thực tiễn để bảo đảm tốt hơn nữa các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.

6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức cơ bản về cơ sở bảo đảm các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS trên các lĩnh vực chính trị, pháp luật và kinh tế đồng thời làm rò các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS được quy định trong các văn kiện pháp lý quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đưa ra những điểm phù hợp và những điểm chưa phù hợp của pháp luật Việt Nam so với pháp luật quốc tế trong việc bảo đảm thực thi các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS. Trên cơ sở phân tích những hạn chế của pháp luật Việt Nam, luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật trong việc bảo đảm các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả của các hoạt động thực tiễn, luận văn đưa ra một số giải pháp thực tiễn nhằm thực thi tốt hơn nữa các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS.

Các kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo về luật học và phần nào có ý nghĩa đối với cán bộ làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực pháp luật về quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS để tìm hiểu, vận dụng để xây dựng quy định và thực thi các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu gồm 02 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS: Chương này tác giả trình bày khái quát về HIV/AIDS. Nội dung của sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, phân tích các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS theo quy định của pháp luật quốc tế và đưa ra những bảo đảm đối với phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS đó là những bảo đảm về chính trị, bảo đảm bằng pháp luật và bảo đảm về kinh tế.

Chương 2: Thực trạng và giải pháp bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS. Chương này tác giả đánh giá thực trạng của pháp luật Việt Nam và thực trạng bảo đảm thực tế các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS và đưa ra các giải pháp pháp lý và giải pháp thực tiễn nhằm bảo đảm tốt hơn các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ BẢO ĐẢM

QUYỀN CON NGƯỜI CỦA PHỤ NỮ TRONG BỐI CẢNH HIV/AIDS


1.1 Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS

1.1.1 Khái quát về HIV/AIDS

HIV (viết tắt từ các chữ cái đầu của cụm từ tiếng Anh: Human Immunodeficiency Virus) là tên gọi tắt của một loại vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người. Sau khi xâm nhập cơ thể, HIV tấn công ngay vào các bạch cầu, dẫn đến hệ miễn dịch của cơ thể bị suy giảm dần, cuối cùng là bị “vô hiệu hóa” và điều đó có nghĩa là cơ thể con người không còn được bảo vệ nữa. Lúc đó, mọi mầm bệnh khác như vi trùng, siêu vi trùng nhân cơ hội gây nên nhiều bệnh nguy hiểm cho người có HIV... và dẫn đến tử vong.

AIDS (viết tắt từ các chữ cái đầu của cụm từ tiếng Anh: Aquired ImmunoDeficiency Syndrome) - là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người - giai đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV. Thời gian từ khi nhiễm HIV cho đến khi thành AIDS dài hay ngắn tùy thuộc vào sức chống đỡ bệnh tật và hành vi của từng người. Trung bình từ khi nhiễm HIV đến khi thành AIDS kéo dài từ 5-7 năm, nhưng có nhiều trường hợp có thể kéo dài đến hàng chục năm nếu người nhiễm HIV biết cách giữ gìn sức khỏe và không có hành vi nguy cơ liên quan đến lây nhiễm HIV.

Nhiễm HIV không phải là thành AIDS ngay mà nó diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định, có thể lên đến hàng chục năm và trong khoảng thời gian này, người nhiễm HIV hoàn toàn khỏe mạnh, họ vẫn sống, lao động và học tập bình thường, nhưng họ có thể làm lây truyền HIV từ người này sang người khác. Quá trình từ nhiễm HIV thành AIDS dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như sức đề kháng của người nhiễm, lối sống và sinh hoạt của họ sau khi nhiễm bệnh, sự chăm sóc của gia đình, người thân, mức độ kỳ thị, phân biệt đối xử của xã hội.

Hiện nay, trên thế giới vẫn chưa nghiên cứu và sản xuất được vắc xin phòng ngừa và thuốc điều trị triệt để HIV/AIDS.

Trên thực tế HIV chỉ có thể lây truyền qua ba con đường đó là:

- Đường máu;

- Đường tình dục

- Đường truyền từ mẹ sang con;

Phụ nữ dễ bị tổn thương với lây nhiễm HIV hơn so với nam giới, cụ thể:

Về mặt sinh học: Phụ nữ có nguy cơ nhiễm HIV cao hơn nam giới do đặc điểm đặc thù về sinh học. Phụ nữ có nguy cơ nhiễm HIV do quan hệ tình dục cao gấp 2 đến 4 lần so với nam giới do diện tích cơ thể tiếp xúc với vi rút HIV cao hơn nam giới.

Về y học: Khi có thai, hệ thống miễn dịch trong cơ thể phụ nữ bị giảm sút, sức đề kháng đối với bệnh tật giảm vì vậy vi rút HIV dễ dàng xâm nhập hơn. Mặt khác, phụ nữ thường phải truyền máu vì bị giảm sút hồng cầu hay do những bất trắc trong sinh nở làm tăng khả năng nhiễm HIV cao hơn nhiều so với nam giới.

Về kinh tế: Phụ nữ thường phụ thuộc vào nam giới về mặt kinh tế. Hơn 2/3 phụ nữ trên thế giới mù chữ và 70% sống trong đói nghèo [29,41], vì vậy họ khó có cơ hội thực hiện quyền tự chủ, dẫn đến họ khó có thể chủ động về địa điểm cũng như cách thức quan hệ tình dục an toàn. Do đó nguy cơ phơi nhiễm HIV là khó tránh khỏi.

Về xã hội: Nam giới thường có nhiều quyền lực hơn nữ giới trong gia đình và ngoài xã hội. Phụ nữ thường không có nhiều quyền quyết định đến những việc có liên quan đến cơ thể của họ như đàn ông. Thông thường, đàn ông cảm thấy mình có quyền lực đối với phụ nữ, đặc biệt là với vợ và bạn tình của mình. Vì vậy, một người phụ nữ khi có quan hệ tình cảm với một người đàn ông thì người đàn ông có thể kiểm soát việc khi nào họ quan hệ tình dục và có sử dụng biện pháp bảo vệ hay không. Người phụ nữ thường cảm thấy mình không có quyền để nói “không” với quan hệ tình dục hoặc yêu cầu bạn tình của mình sử dụng biện pháp bảo vệ. Mặt khác, đàn ông thường có nhiều bạn tình hoặc có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Đây là yếu tố làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV từ chồng hoặc bạn tình đối với phụ nữ. Hơn nữa, ở Việt Nam, những chuẩn mực xã hội lâu đời không

khuyến khích thảo luận cởi mở về tình dục, điều này hạn chế cơ hội của phụ nữ để có được tình dục an toàn.

HIV không lây qua tiếp xúc thông thường. Như vậy, chúng ta có thể sống, làm việc, học tập... chung với người nhiễm HIV.

Ca nhiễm HIV đầu tiên trên thế giới được phát hiện vào năm 1980 tại Mỹ, sau đó đã lây lan nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu. Theo thống kê của UNAIDS cho đến gần đây trên thế giới có hơn 33,4 triệu người đang sống chung với HIV/AIDS và hơn 30 triệu người chết vì HIV/AIDS, ước tính khoảng 16 triệu trẻ em bị mồ côi vì AIDS và hơn 7.000 ca nhiễm HIV mới mỗi ngày chủ yếu xảy ra ở những người sống tại các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình và mới có khoảng gần một nửa những người sống với HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của bản thân [57]. Trong số 33,4 triệu người đang sống chung với HIV trên toàn thế giới có 17,5 triệu là phụ nữ [44,6].

Tại khu vực châu Á, từ lâu dịch HIV/AIDS vẫn tập trung chủ yếu trong các nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao như người tiêm chích ma túy, phụ nữ mại dâm và khách hàng của họ và nam tình dục đồng giới. Tuy nhiên dịch HIV/AIDS tại nhiều khu vực của châu Á đang dần lan sang các nhóm có nguy cơ lây nhiễm thấp như thông qua sự lây nhiễm HIV sang bạn tình của những người thuộc nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao. Năm 2008, tại Châu Á có 4,7 triệu người sống với HIV/AIDS, ước tính khoảng 35% trong số đó là phụ nữ trong khi đó tỷ lệ phụ nữ có HIV/AIDS năm 2000 chiếm khoảng 19% [44,6]. Bằng chứng thực tiễn từ nhiều quốc gia châu Á cũng chỉ ra rằng hầu hết số phụ nữ bị nhiễm HIV/AIDS không phải do hành vi tình dục của bản thân họ mà do chồng hoặc bạn tình của họ đã tham gia vào các hành vi không an toàn. Ước tính có đến hơn 90% số phụ nữ sống với HIV/AIDS bị lây nhiễm từ chồng hoặc bạn tình nam của họ [44,6].

Tại Việt Nam, dịch HIV/AIDS hiện đang tập trung ở các nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao như người tiêm chích ma túy, phụ nữ bán dâm và nam tình dục đồng giới. Theo thống kê, đến cuối năm 2011, cả nước có 197.335 người nhiễm HIV đang còn sống, đã có 52.325 người chết do HIV/AIDS, dịch HIV/AIDS đã xuất

hiện ở 100% tỉnh, thành phố [22]. Năm 2007, số nam giới trong độ tuổi trưởng thành (từ 15 tuổi trở lên) nhiễm HIV/AIDS cao gấp 3 lần so với phụ nữ và nam giới vẫn chiếm đa số các ca nhiễm mới [44]. Nhưng theo ước tính của Bộ Y tế, khoảng cách này giảm xuống còn 2,6% vào năm 2012 [44].

Như vậy, HIV/AIDS đang là hiểm họa hàng đầu về việc gây ra chết chóc, đói nghèo, lạc hậu ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều thế hệ ở nhiều quốc gia, dân tộc.

Ở Việt Nam, Chị thỉ 54 ngày 30/11/2005, của Ban Bí thư đã nhận định “Cho đến nay ở nước ta HIV/AIDS xuất hiện ở tất cả các tỉnh, thành phố và có xu hướng ngày càng lan rộng. Ngoài các nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao, HIV/AIDS đang đe dọa trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng con người, trật tự, an toàn xã hội, đến sự phát triển của đất nước, tương lai của giống nòi”. Chiến lược quốc gia về phòng, chống HIV/AIDS phải được coi là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và lâu dài.

Khác với nhiều căn bệnh khác HIV/AIDS là một vấn đề y học – xã hội.

Về mặt dịch tễ học, khác với nhiều bệnh lây truyền, mãn tính khác HIV/AIDS là bệnh mãn tính, thời gian ủ bệnh kéo dài, gây tử vong, hiện tại vẫn chưa có vắc xin phòng bệnh, chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Con đường lây nhiễm chủ yếu qua quan hệ tình dục, qua đường máu và từ mẹ sang con. Những đặc điểm dịch tễ học nói trên cùng với sự thiếu hiểu biết về HIV/AIDS là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự kỳ thị và phân biệt đối xử của xã hội đối với những người có HIV/AIDS và những người thân của họ làm ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của những người có HIV/AIDS và những người thân của họ.

Ở Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, thái độ ban đầu của cộng đồng đối với những người bị nhiễm HIV/AIDS và các gia đình là tiêu cực. Khi bị phát hiện là nhiễm HIV/AIDS, những người bị bệnh bị từ bỏ, cách ly, ngay cả người thân trong gia đình cũng không cho họ cùng ăn, thậm chí còn nhốt họ và cách ly để tránh lây nhiễm. Cộng đồng từ chối làm việc với những người có HIV/AIDS và những thành viên gia đình có người bị nhiễm HIV/AIDS.

Theo một số nghiên cứu, ảnh hưởng của HIV/AIDS tác động như nhiều làn sóng kế tiếp nhau:

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 28/06/2022