Công Ước Về Xóa Bỏ Mọi Hình Thức Phân Biệt Đối Xử Chống Lại Phụ Nữ, 1979 (Cedaw)

hiện có là cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng trong việc bảo đảm các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.

1.2.1.1 Hiến chương Liên hợp quốc

Trước hết phải kể đến là Hiến chương Liên hợp quốc. Mặc dù vấn đề quyền con người không phải là mục tiêu duy nhất của Hiến chương Liên hợp quốc, tuy nhiên văn kiện này được coi là cơ sở để xác lập nền tảng của luật nhân quyền quốc tế. Điều này được thể hiện trước hết là bởi Hiến chương đã khẳng định việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của con người, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo là một trong những mục tiêu hoạt động của Liên hợp quốc.

Tại Lời nói đầu của Hiến chương đã khẳng định ý chí của các dân tộc trong Liên hợp quốc là “tin tưởng vào những quyền con người cơ bản, vào nhân phẩm và giá trị của con người, vào quyền bình đẳng giữa nam và nữ và giữa các quốc gia”.

Một số điều khoản trong Hiến chương Liên hợp quốc đã tái khẳng định và cụ thể hóa các mục tiêu của Liên hợp quốc trên lĩnh vực quyền con người bằng mọi biện pháp “nâng cao mức sống, công ăn việc làm … giải quyết những vấn đề quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, y tế …tôn trọng và tuân thủ triệt để các quyền con người và các quyền tự do cơ bản của tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo”.

Hiến chương Liên Hợp quốc là văn kiện chính quy định về cơ cấu tổ chức, hoạt động và trách nhiệm của các cơ quan Liên hợp quốc, một trong những mục tiêu hoạt động của các cơ quan đó là nhằm thực hiện các mục tiêu của Liên hợp quốc về quyền con người.

Những quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và thông qua các văn kiện quốc tế về quyền con người.

1.2.1.2 Bộ luật nhân quyền quốc tế

Bộ luật nhân quyền quốc tế - bao gồm ba văn kiện quốc tế về quyền con người đó là Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 (UDHR), Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 (ICESCR).

Tuyên ngôn nhân quyền được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

ngày 10/12/1948, đây là văn kiện pháp lý đầu tiên đề cập đến quyền con người. Tuyên ngôn gồm 30 điều, xác định các quyền và tự do cơ bản của con người trên tất cả các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Tập hợp các quyền và tự do trong UDHR được coi là “khuôn mẫu chung” mà các quốc gia, tổ chức, cá nhân cần đạt tới.

Mặc dù đây không phải là một điều ước quốc tế, song UDHR được xem là cấu thành trung tâm của luật tập quán quốc tế về quyền con người tức là có hiệu lực bắt buộc đối với mọi quốc gia trên thế giới.

Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV AIDS ở Việt Nam - 5

Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 (ICESCR) cùng được thông qua bằng Nghị quyết 2200 A (XXI) ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, nội dung hai công ước ghi nhận các quyền của con người trên các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và có hiệu lực bắt buộc đối với các quốc gia thành viên.

Bên cạnh việc ghi nhận các quyền của cá nhân thì tương ứng với mỗi quyền là nghĩa vụ của nhà nước, của tổ chức, cá nhân khác trong việc tôn trọng, bảo vệ và thực thi các quyền đã được thừa nhận. Tôn trọng quyền con người là việc nhà nước, cá nhân, tổ chức tránh thực hiện những biện pháp gây trở ngại hoặc ngăn cản việc thụ hưởng quyền con người đã được thừa nhận của công dân; bảo vệ quyền là việc thực hiện các biện pháp không cho phép bên thứ ba can thiệp vào việc thụ hưởng quyền và nghĩa vụ thực thi là việc thực hiện các biện pháp tích cực để tạo điều kiện và hỗ trợ các cá nhân thụ hưởng quyền.

Quy định về quyền con người trong UDHR, ICCPR và ICESCR thể hiện các tính chất của quyền con người đó là: Các quyền con người mang tính phổ biến, không thể chia tách, phụ thuộc và liên kết với nhau. Các tính chất này còn được xem là các nguyên tắc về quyền con người, là cơ sở để các quốc gia thành viên xây dựng và áp dụng pháp luật trong việc bảo đảm các quyền của công dân quốc gia mình.

Thứ nhất: Quyền con người mang tính phổ biến: Thể hiện ở chỗ quyền con

người là những gì bẩm sinh, vốn có và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì. Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử yêu cầu các quốc gia phải tôn trọng và bảo đảm cho tất cả mọi người trong lãnh thổ và phạm vi tài phán của mình các quyền đã được ghi nhận trong các công ước quốc tế mà không có bất cứ sự phân biệt đối xử nào như về giới tính, tình trạng sức khỏe bao gồm cả tình trạng có HIV/AIDS.

Trong các bình luận chung của Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa như: Bình luận chung số 7 về quyền có nhà ở thích đáng, bình luận chung số 12 về quyền được có lương thực, thực phẩm ở mức thích đáng, bình luận chung số 13 về quyền được giáo dục, bình luận chung số 14 quyền đạt được mức độ sức khỏe cao nhất có thể, bình luận chung số 15 về quyền tiếp cận với nước, bình luận chung số 18 về quyền được làm việc và bình luận chung số 19 về quyền được hưởng an sinh xã hội đều khẳng định quyền bình đẳng của mọi người được thụ hưởng đầy đủ các quyền đó mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào kể cả yếu tố về giới tính và tình trạng có HIV/AIDS.

Tương tự như vậy, các bình luận chung của Ủy ban nhân quyền đối với các quyền được ghi nhận trong các công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị như bình luận chung số 4 về bình đẳng nam nữ trong việc thụ hưởng các quyền dân sự, chính trị, bình luận chung số 18 về không phân biệt đối xử, bình luận chung số 19 về gia đình, bình luận chung số 28 - sự bình đẳng về quyền giữa nam và nữ cũng ghi nhận quyền bình đẳng của mọi cá nhân trong cộng đồng nhân loại được hưởng các quyền về dân sự, chính trị mà không bị phân biệt đối xử trên bất cứ yếu tố nào.

Trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm nguyên tắc này đó là phải đảm bảo sự bình đẳng về thực chất, tức là các quyền con người được thừa nhận trong các văn bản pháp luật quốc gia và nhà nước có trách nhiệm đảm bảo thực thi các quyền này một cách bình đẳng trên thực tế. Đối với nhóm phụ nữ và phụ nữ có HIV/AIDS- nhóm xã hội dễ bị tổn thương, do vậy nhà nước cần có sự đối xử ưu tiên đối với nhóm này tạo cho họ có vị thế ngang với các nhóm xã hội khác trong việc thực thi có hiệu quả các quyền con người.

Thứ hai: Nguyên tắc quyền con người không thể tước bỏ được thể hiện ở chỗ các quyền con người không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào. Theo nguyên tắc này các quốc gia có nghĩa vụ ghi nhận và bảo đảm thực thi đầy đủ các quyền con người, đặc biệt trong bối cảnh HIV/AIDS.

Theo luật quốc tế về quyền con người, trừ một số quyền tuyệt đối các nhà nước có thể đưa ra những giới hạn về một số quyền con người trong những bối cảnh do nhà nước xác định với điều kiện là: Các giới hạn đó là cần thiết cho lợi ích chung như bảo đảm cho sức khỏe của cộng đồng, các quyền của người khác, đạo đức và trật tự xã hội hay lợi ích chung trong một xã hội dân chủ hoặc để bảo đảm an ninh quốc gia. Để bảo đảm sự hạn chế của các quyền con người là hợp pháp nhà nước phải bảo đảm rằng: Các giới hạn đó phải được quy định và thực hiện theo đúng quy định của pháp luật; Các giới hạn đó phải được xác lập dựa trên một lợi ích hợp pháp; Các giới hạn đó phải tương thích với các lợi ích được bảo vệ và tối thiểu hóa đến mức có những biện pháp xâm hại hay hạn chế và phù hợp trong một xã hội dân chủ, như phải được đưa ra bằng một tiến trình ra quyết định phù hợp với các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền [28,967].

Trong bối cảnh HIV/AIDS, bảo đảm sức khỏe cộng đồng là một lý do thường được các nhà nước viện dẫn nhiều nhất cho việc hạn chế các quyền con người. Tuy nhiên có những giới hạn vi phạm nguyên tắc về không phân biệt đối xử như tình trạng có HIV/AIDS được sử dụng như là cơ sở cho những đối xử khác biệt trong các lĩnh vực giáo dục, việc làm, chăm sóc sức khỏe, đi lại, an ninh xã hội…, các quyền về đời tư cũng bị vi phạm thông qua việc cưỡng bức xét nghiệm HIV/AIDS và công khai tình trạng có HIV/AIDS, quyền tự do cá nhân cũng bị vi phạm khi HIV/AIDS được sử dụng để biện minh cho việc tước bỏ tự do hay để chia tách những người có HIV/AIDS với những người bình thường. Mặc dù những biện pháp như vậy có thể hiệu quả đối với những bệnh dễ lây truyền thông qua tiếp xúc thông thường nhưng không có hiệu quả khi áp dụng với HIV/AIDS bởi HIV/AIDS không lây qua tiếp xúc thường do đó hiếm khi có một cơ sở hợp pháp cho những giới hạn về quyền con người, đặc biệt là với những phụ nữ có HIV/AIDS. Những việc làm như vậy là vi phạm các quyền con người của những người có HIV/AIDS.

Thứ ba: Tính không thể phân chia bắt nguồn từ nhận thức rằng các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau nên về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào đều có tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người. Trong bối cảnh HIV/AIDS, việc đảm bảo thực thi nguyên tắc này trong các hoạt động lập pháp và hành pháp có vai trò quan trọng, góp phần hạn chế nguy cơ lây nhiễm HIV và hạn chế hậu quả do HIV gây ra, việc phòng chống HIV/AIDS gắn liền với chăm sóc và điều trị cho người có HIV/AIDS.

Thứ tư: Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau thể hiện ở chỗ việc bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần nằm trong mối liên hệ và phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác.

1.2.1.3 Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, 1979 (CEDAW)

Là một văn kiện quan trọng của Liên hợp quốc trong việc bảo đảm các quyền con người. CEDAW đã khẳng định các nguyên tắc về bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa nam và nữ trong việc hưởng thụ các quyền con người được ghi nhận trong UDHR, ICCPR và ICESCR, cũng như trách nhiệm của các quốc gia trong việc bảo đảm quyền này được thực thi trên thực tế. Tuy nhiên, do lo ngại rằng dù đã có những văn kiện nêu trên, sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ vẫn đang tồn tại phổ biến trên thế giới nên các quốc gia đã nhất trí thông qua công ước này với quyết tâm nhằm mục đích xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ bằng cách thông qua những biện pháp cần thiết để xóa bỏ tất cả sự phân biệt đối xử như vậy dưới những hình thức và biểu hiện của chúng.

CEDAW không xác lập các quyền con người mới cho phụ nữ mà thay vào đó, công ước này đề ra những cách thức, biện pháp nhằm loại trừ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong việc thụ hưởng những quyền con người mà họ đã được thừa nhận trong các công ước quốc tế. Cụ thể, công ước chỉ ra những quyền mà phụ

nữ bị phân biệt đối xử nặng nề như các quyền liên quan đến hôn nhân, gia đình, quyền về việc làm, giáo dục đào tạo, chăm sóc y tế … đồng thời công ước xác định những biện pháp để xóa bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong các lĩnh vực đó.

Để loại trừ mọi sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ các quốc gia có nghĩa vụ:

Quy định các nguyên tắc bình đẳng nam nữ trong Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện các nguyên tắc này trên thực tế;

Ngăn chặn mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ bằng mọi biện pháp, kể cả bằng chế tài hình sự;

Bảo đảm rằng hoạt động của các cơ quan nhà nước ở các cấp không có tính chất phân biệt đối xử chống lại phụ nữ;

Thực thi tất cả các biện pháp thích hợp nhằm xóa bỏ những hành động phân biệt đối xử với phụ nữ của bất kỳ chủ thể nào;

Điều chỉnh, xóa bỏ những phong tục tập quán có tính chất phân biệt đối xử chống lại phụ nữ.

Đặc biệt, công ước CEDAW cho phép các quốc gia thành viên có thể áp dụng những ưu đãi (còn gọi là biện pháp đặc biệt tạm thời) đối với phụ nữ để thúc đẩy nhanh sự bình đẳng trên thực tế giữa nam và nữ mà không bị coi là phân biệt đối xử với nam giới và các biện pháp này sẽ chấm dứt khi mục tiêu bình đẳng nam nữ đã đạt được.

CEDAW cũng đưa ra những yêu cầu trong việc thay đổi những tập tục và khuôn mẫu giới có tác động tiêu cực đến phụ nữ như các phong tục, tập quán mang tính định kiến, dập khuôn về vị thế thấp kém của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Một trong các biện pháp được đưa ra để thay đổi những tư tưởng, tập quán này đó là đẩy mạnh các hoạt động giáo dục về gia đình với nội dung thừa nhận vai trò của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội.

Khuyến nghị chung số 15 về chống phân biệt đối xử với phụ nữ trong các chiến lực quốc gia về ngăn chặn và kiểm soát hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (AIDS) được Ủy ban về xóa bỏ phân biệt đối xử chống lại phụ nữ thông qua đã đưa ra khuyến nghị với các quốc gia, theo đó các quốc gia cần tăng

cường những nỗ lực phổ biến thông tin nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về nguy cơ nhiễm HIV và AIDS đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em cùng với những tác động của HIV/AIDS đối với họ. Các chương trình phòng chống HIV/AIDS cần chú ý đặc biệt đến những quyền và nhu cầu của phụ nữ và trẻ em cùng những yếu tố liên quan đến vai trò sinh sản của phụ nữ và vị thế của phụ thuộc của họ là nhân tố làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV và tăng tính tổn thương trước HIV/AIDS. Đồng thời các quốc gia có trách nhiệm phải bảo đảm sự tham gia tích cực của phụ nữ trong việc chăm sóc sức khỏe ban đầu và áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội.

1.2.1.4 Các hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS và quyền con người, 1996

Văn kiện này bao gồm những hướng dẫn được thông qua tại Hội nghị tư vấn quốc tế lần thứ hai về HIV/AIDS và quyền con người, do Cao ủy Liên hợp quốc/Trung tâm quyền con người và Chương trình về HIV/AIDS của Liên hợp quốc (UNAIDS) đồng tổ chức ở Geneva từ ngày 23 – 25/9/1996, nhằm hỗ trợ các quốc gia xác lập một cách ứng xử với HIV/AIDS mang tính tích cực và dựa trên quyền - điều mà sẽ tạo hiệu quả trong việc giảm thiểu sự lây truyền và ảnh hưởng của đại dịch, trong khi vẫn bảo đảm sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người.

Mục đích của hướng dẫn là hỗ trợ các quốc gia trong việc vận dụng những quy phạm quốc tế về quyền con người vào hoạt động thực tiễn trong bối cảnh HIV/AIDS. Nhằm đạt được mục tiêu đó, văn kiện này được chia thành hai phần: Phần thứ nhất xác định những nguyên tắc cơ bản về quyền con người làm nền tảng cho cách ứng xử tích cực trong bối cảnh HIV/AIDS. Phần thứ hai đưa ra những biện pháp mang tính định hướng hành động mà các chính phủ cần thực hiện trong các lĩnh vực pháp luật, chính sách và thực tiễn quản lý hành chính nhằm bảo vệ các quyền con người và đạt được những mục tiêu bảo vệ y tế công liên quan tới HIV/AIDS.

Mặc dù không phải là một điều ước quốc tế nên không có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý với các quốc gia, tuy nhiên Hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS và quyền con người sẽ đặc biệt hữu ích với các nhà nước, nhà lập pháp, nhà hoạch định chính sách của chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, tổ chức phi chính phủ, các tổ

chức, cá nhân khác có liên quan trong việc tham gia vào lĩnh vực bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người của những người có HIV/AIDS và trong quá trình phòng chống đại dịch.

Hướng dẫn khẳng định kinh nghiệm thu được trong những năm chống chọi với đại dịch HIV/AIDS, việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người là một yếu tố cấu thành trong việc phòng chống sự lây truyền của HIV cũng như trong việc giảm thiểu hậu quả của HIV/AIDS, và khẳng định các nguyên tắc về quyền con người đóng vai trò thiết yếu cho hành động đối phó có hiệu quả với HIV/AIDS.

Theo Hướng dẫn, một cách tiếp cận với HIV/AIDS dựa trên quyền con người là phải dựa trên những nghĩa vụ quốc gia trong việc bảo vệ các quyền con người, HIV/AIDS cho thấy tính không thể chia cắt của các quyền con người, bởi lẽ sự thừa nhận các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa cũng như các quyền dân sự, chính trị là yếu tố thiết yếu để đảm bảo sự phản ứng có hiệu quả với đại dịch.

Hướng dẫn đưa ra việc áp dụng một số quyền con người trong bối cảnh HIV/AIDS trong đó có các quyền con người của phụ nữ.

Phần hai Hướng dẫn đưa ra những biện pháp nhằm bảo vệ các quyền con người trong bối cảnh HIV/AIDS. Trong đó có việc rà soát, sửa đổi và ban hành các quy định của pháp luật về y tế công, luật hình sự và hệ thống hình phạt và luật về chống phân biệt đối xử.

1.2.1.5 Các văn bản của ILO

Quy tắc thực hành của ILO về HIV/AIDS tại nơi làm việc

Quy tắc thực hành của ILO về HIV/AIDS tại nơi làm việc được thông qua vào ngày 22/06/2001 thừa nhận HIV/AIDS là một vấn đề tại nơi làm việc. Quy tắc nhấn mạnh không được kỳ thị và phân biệt đối xử với người lao động dù họ có thực sự nhiễm HIV hay bị nghi là nhiễm, bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động, việc xét nghiệm HIV/AIDS không được coi như một điều kiện dự tuyển hoặc đối với người đang làm việc và xét nghiệm HIV không thể được thực hiện tại nơi làm việc, những thông tin cá nhân liên quan đến tình trạng bị nhiễm HIV phải bị cấm theo nguyên tắc bảo mật và nhiễm HIV không phải là nguyên nhân để chấm

Xem tất cả 96 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí