vụ y tế cần được tổ chức trong mối quan hệ chặt chẽ với cơ quan quản lý y tế chung của cộng đồng hay của quốc gia. Dịch vụ y tế phải bao gồm chuyên môn tâm thần để chẩn đoán, và trong một số trường hợp thích đáng, điều trị những trạng thái thần kinh không bình thường (điểm a, đoạn 22).
Các tù nhân bị ốm và cần được điều trị đặc biệt phải được chuyển sang những nhà tù chuyên biệt hoặc chuyển tới các bệnh viện dân sự. Ở nhà tù nào có tiện nghi bệnh viện, trang thiết bị và thuốc men của nhà tù đó phải đáp ứng được yêu cầu về chăm sóc y tế và điều trị cho tù nhân bị ốm, và phải có đội ngũ nhân viên được đào tạo thích hợp. Phải có dịch vụ của nhân viên nha khoa có trình độ dành cho mọi tù nhân (điểm b và c, đoạn 22).
1.2.3.4. Vệ sinh
QTTCTT quy định khu vệ sinh phải thỏa đáng để mọi tù nhân có thể đáp ứng được nhu cầu tự nhiên khi cần thiết và phải sạch, tươm tất.Phải có chỗ tắm thỏa đáng sao cho mỗi tù nhân có thể và buộc phải tắm ở nhiệt độ phù hợp với khí hậu, ở mức thường xuyên cần thiết cho việc giữ vệ sinh chung tùy theo mùa và vùng địa lý, nhưng phải tắm ít nhất một tuần một lần trong điều kiện khí hậu ôn hòa. Tất cả những bộ phận của nhà tù thường xuyên có tù nhân phải được bảo quản thích hợp và phải luôn thật sạch sẽ (các đoạn 12, 13 và 14).
Về vệ sinh cá nhân, QTTCTT quy định các tù nhân bắt buộc phải giữ bản thân sạch sẽ, và để thực hiện mục tiêu này, họ phải được cung cấp nước và đồ dùng vệ sinh cần thiết để giữ gìn sức khỏe và sự sạch sẽ (đoạn 15). Để các tù nhân có thể giữ được bề ngoài gọn gàng tương ứng với sự tự trọng của họ, phải cung cấp cho họ những tiện nghi để chăm sóc râu và tóc một cách thích hợp, và tù nhân nam phải được thường xuyên cạo râu (đoạn 16).
Các Quy tắc đối xử đối với phạm nhân nữ nhấn mạnh thêm nhu cầu vệ sinh cá nhân của phụ nữ (khăn vệ sinh, nước sạch,...) (Quy tắc 5).
1.2.3.5. Luyện tập thể thao
Về thể dục và thể thao, QTTCTT có quy định mọi tù nhân không được lao động bên ngoài phải có ít nhất một giờ tập thể dục thích hợp ở ngoài trời hàng ngày nếu thời tiết cho phép. Tù nhân trẻ tuổi và những người khác ở lứa tuổi và có thể lực phù hợp phải được tập luyện thể lực và giải trí trong thời gian tập thể dục. Các nhà tù phải có đủ không gian và trang thiết bị phục vụ mục đích này (đoạn 21).
1.2.4. Sử dụng thời gian trong trại giam hữu ích nhất
Với tinh thần nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm con người, QTTCTT xác định mục đích hình phạt giam giữ là nhằm mục đích bảo vệ xã hội nhằm chống lại tội phạm, và mục đích này chỉ có thể đạt được nếu thời gian ngồi tù được sử dụng để bảo đảm, trong khả năng lớn nhất, rằng khi người phạm tội trở về thì họ sẵn sang, có khả năng sống theo pháp luật và nuôi sống bản thân (đoạn 58). QTTCTT còn khuyến nghị các nhà tù phải giảm đến mức thấp nhất những khác biệt với thế giới bên ngoài, có những bước cần thiết đế bảo đảm cho tù nhân quay lại dần dần với đời sống xã hội (đoạn 60). Dưới đây, các khía cạnh lao động, giáo dục, các hoạt động văn hóa, tôn giáo, chuẩn bị cho việc trả tự do,... sẽ được phân tích sâu.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật Việt Nam - 2
- Khái Niệm Bảo Đảm Các Quyền Con Người Của Phạm Nhân Bằng Pháp Luật
- Quyền Được Bảo Đảm Mức Sống Tiêu Chuẩn Đầy Đủ (Điều Kiện Sống)
- Bảo Vệ Quyền Của Phạm Nhân Ở Cộng Hòa Liên Bang Đức
- Những Kết Quả Đạt Được Trong Việc Bảo Đảm Quyền Con Người Của Phạm Nhân
- Chế Độ Gặp Thân Nhân, Gửi, Nhận Thư, Quà, Tiền, Trao Đổi Thông Tin Bằng Điện Thoại Và Mua Hàng Tại Căng Tin
Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.
1.2.4.1. Lao động
Đoạn 71 của QTTCTT quy định lao động nhà tù không được mang tính chất khổ sai. Mọi tù nhân đang chấp hành án đều phải lao động, tùy thuộc vào sức khỏe thể chất và tâm thần của họ, do cán bộ y tế xác định. Trong phạm vi cho phép, công việc được cung cấp phải nhằm duy trì hoặc làm tăng khả năng tù nhân có thể kiếm sống một cách trung thực sau khi được thả. Phải có đào tạo nghề trong các công việc hữu ích cho tù nhân để họ có thể kiếm sống bằng nghề đó, đặc biệt là cho những tù nhân trẻ tuổi. Trong giới hạn phù hợp với việc chọn lựa nghề thích hợp và với những yêu cầu về quản lý và kỷ luật nhà tù, tù nhân phải có thể được chọn loại công việc mà họ muốn làm.
Cách tổ chức và những phương pháp làm việc trong nhà tù phải càng giống càng tốt với các công việc tương tự ngoài nhà tù, để chuẩn bị cho tù nhân những điều kiện của cuộc sống có nghề nghiệp bình thường sau này. Tuy nhiên, những lợi ích của tù nhân và của việc đào tạo nghề cho họ phải không được sử dụng vào mục đích kiếm lợi cho một ngành công nghiệp trong nhà tù (đoạn 72).
Đoạn 74 đòi hỏi các biện pháp phòng ngừa để đảm bảo an toàn và sức khỏe cho người lao động tự do cũng phải được chú ý đến, với cùng mức độ như vậy, trong nhà tù. Phải có những quy định bảo đảm cho tù nhân đề phòng tai nạn lao động, kể cả bệnh nghề nghiệp, với những điều khoản không kém thuận lợi hơn so với quy định pháp luật áp dụng đối với người lao động tự do.
Số giờ làm việc tối đa hàng ngày và hàng tuần của tù nhân phải được ấn định bởi pháp luật hoặc các quy định hành chính, có tính đến quy tắc và tập quán địa phương liên quan tới việc sử dụng lao động tự do. Với số giờ được ấn định như vậy, phải có ít nhất một ngày nghỉ mỗi tuần và có đủ thời gian dành cho giáo dục và những hoạt động cần thiết khác với tư cách là một phần trong việc đối xử với tù nhân và việc tái hòa nhập xã hội của họ (đoạn 75).
Phải có một chế độ trả công thỏa đáng đối với công việc của tù nhân. Theo chế độ đó, tù nhân phải được phép sử dụng ít nhất một phần thu nhập của họ để mua những đồ đạc được chấp thuận để họ sử dụng riêng và để gửi một phần thu nhập của họ cho gia đình. Chế độ đó cũng cho phép ban quản lý nhà tù dành một phần trong thu nhập để thành lập một quỹ tiết kiệm và sẽ được trao cho người tù khi họ được thả (đoạn 76).
1.2.4.2. Giáo dục và các hoạt động văn hóa
Về giáo dục, đoạn 77 QTTCTT có quy định Phải có quy định về việc ưu tiên giáo dục cho tất cả những tù nhân có khả năng hưởng lợi ích từ giáo dục, kể cả các giáo lý tín ngưỡng ở những quốc gia có thể thực hiện được điều này. Giáo dục cho người mù chữ và tù nhân trẻ là bắt buộc và ban quản lý nhà
tù phải chú ý đặc biệt đến việc này. Nếu có thể được, giáo dục cho tù nhân phải được kết hợp với hệ thống giáo dục của quốc gia đó, sao cho sau khi được thả, họ có thể tiếp tục việc học tập mà không gặp khó khăn.
Các hoạt động giải trí và văn hóa phải có ở mọi nhà tù để phục vụ cho sức khỏe thể chất và tâm thần của tù nhân (đoạn 78).
Việc đọc sách và thư viện có vai trò giúp phạm nhân tự học và giải trí. Mọi nhà tù phải có thư viện để cho mọi loại tù nhân sử dụng, có đủ sách giải trí và sách hướng dẫn, và tù nhân phải được khuyến khích tận dụng thư viện (đoạn 40).
1.2.4.3. Tôn giáo
Tự do tín ngưỡng và tôn giáo là những quyền dân sự thiết yếu được UDHR, ICCPR và một số văn kiện quốc tế khác bảo vệ. Về tín ngưỡng, tôn giáo, QTTCTT quy định tương đối cụ thể.
Nếu nhà tù có đủ số tù nhân cùng theo một tín ngưỡng thì một đại diện đủ tư cách của tín ngưỡng đó phải được chỉ định hoặc chấp thuận. Nếu số lượng tù nhân là thỏa đáng và nếu điều kiện cho phép thì cần thỏa thuận để người đại diện đó làm việc toàn thời gian (điểm a, đoạn 41). Người đại diện đủ tư cách được chỉ định hoặc chấp thuận này phải được phép tổ chức hành lễ thường xuyên và được đi thăm tù nhân theo tín ngưỡng của người đó một cách riêng tư vào những thời điểm thích hợp. Không được từ chối cho bất kỳ tù nhân nào tiếp xúc với đại diện đủ tư cách của một tín ngưỡng. Mặt khác, nếu bất kỳ tù nhân nào phản đối sự viếng thăm của bất kỳ đại diện của một tôn giáo nào thì thái độ của tù nhân đó phải được tôn trọng hoàn toàn.
Trong chừng mực có thể thực hiện được, mọi tù nhân phải được thỏa mãn những nhu cầu đời sống tín ngưỡng bằng việc tham gia các buổi lễ tổ chức trong nhà tù, được sở hữu sách kinh của tôn giáo và giáo phái của người đó (đoạn 42).
1.2.4.4. Chuẩn bị cho việc trả tự do
QTTCTT quy định từ khi tù nhân bắt đầu chấp hành án, phải quan tâm tới tương lai sau khi họ được thả.Họ được khuyến khích và giúp đỡ để duy trì và thiết lập những quan hệ như vậy với những người và tổ chức ngoài nhà tù nếu điều đó thúc đẩy lợi ích tốt nhất của gia đình họ và sự tái hòa nhập xã hội của riêng họ (đoạn 80).
Theo đoạn 81 QTTCTT, các dịch vụ và các tổ chức thuộc chính phủ hay ngoài chính phủ giúp đỡ người ra tù để họ tái lập lại vị trí của mình trong xã hội, trong chừng mực có thể và cần thiết, phải đảm bảo rằng người ra tù phải được cấp những tài liệu thích hợp và những giấy tờ chứng minh cần thiết, phải có nhà ở và công việc làm thích hợp, phải có đầy đủ quần áo phù hợp theo mùa và khí hậu, phải có đủ phương tiện để đi đến nơi họ ở và duy trì cuộc sống của bản thân trong khoảng thời gian ngay sau khi được thả. Các đại diện được chấp nhận của những tổ chức đó phải có sự tiếp cận cần thiết với nhà tù và tù nhân, phải bàn bạc về tương lai của tù nhân ngay từ những ngày đầu chịu án.
1.2.5. Quyền liên lạc với bên ngoài, vấn đề giam kín và biệt giam
Con người là một "động vật xã hội" có nhu cầu giao tiếp với đồng loại, việc tước đoạt quyền giao tiếp với những người xung quanh của một cá nhân làm tổn hại tới tinh thần, sức khỏe cũng như phẩm giá của người đó. Hơn thế, việc gặp gỡ hay liên lạc với những người khác có ý nghĩa tạo ra sự minh bạch, hạn chế sự vi phạm các quyền khác của cá nhân.
Trong một số vụ việc khiếu nại chống lại Urugoay, HRC kết luận rằng việc giam cô lập không ai biết đến (incommunicado detention, tức giam kín, không có sự liên lạc với bên ngoài, còn gọi là "giam cấm cố") trong "một vài tháng" là cấu thành vi phạm Điều 10 (1). Thời gian ngắn nhất trong số các vụ đó, trong vụ Arzuaga Gilboa kiện Urugoay, HRC đã kết luận rằng có vi phạm
là 15 ngày. Đến nay, chưa có khiếu nại nào đề nghị HRC đánh giá về thời hạn giam ngắn hơn. Một vụ giam không ai biết đến trong thời gian 8 tháng đã được Ủy ban kết luận là vi phạm Điều 7 (tra tấn, trừng phạt, đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục). Trong vụ Kang kiện Hàn Quốc (878/99), HRC cho rằng 13 năm biệt giam (solitary confinement, giam một mình một phòng), là "một biện pháp mức độ nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến cá nhân, cần có sự lý giải nghiêm túc nhất và chi tiết nhất" và đã kết luận việc này cấu thành vi phạm Điều 10 (1). Tuy nhiên, cần chú ý là phán quyết này không nhắc gì đến Điều 7, mặc dù thời gian biệt giam rất lâu. Điều đó là bởi đương sự không bị giam cô lập không ai biết đến (incommunicado) và khiếu nại của đương sự chỉ dựa vào Điều 10 (1) chứ không phải Điều 7.
Trong Nhận xét kết luận đối với Đan Mạch (năm 2000), HRC đã đề cập đến biệt giam như sau:
12. Ủy ban đặc biệt quan tâm đến việc áp dụng biệt giam rộng rãi đối với những người bị giam sau khi kết án, và đặc biệt đối với những người bị tạm giam chờ xét xử hoặc tuyên án. Ủy ban cho rằng biệt giam là một hình phạt hà khắc gây ra những hậu quả nghiêm trọng về tinh thần và chỉ có thể biện minh trong những trường hợp nhu cầu khẩn cấp; việc sử dụng biệt giam ngoài những trường hợp ngoại lệ và trong thời hạn nhất định là không phù hợp với khoản 1, Điều 10 của Công ước. Đan Mạch cần xem xét lại việc áp dụng biệt giam và bảo đảm rằng phương thức này chỉ được áp dụng trong những tình huống cấp thiết.
Phần lớn tính "vô nhân đạo" của biệt giam và việc giam cô lập không ai biết đến xuất phát từ việc người bị giam không thể liên lạc với thân nhân ở bên ngoài. Tầm quan trọng của liên lạc với gia đình và bạn bè bên ngoài được làm rò trong vụ Angel Estrella kiện Urugoay (mã số 74/80). Vụ việc này liên
quan đến việc kiểm duyệt thư của tù nhân, mặc dù HRC thừa nhận rằng việc áp dụng các biện pháp giám sát và kiểm duyệt thư từ của các tù nhân là bình thường. Tuy nhiên, HRC nhấn mạnh:
…Điều 17 của Công ước quy định rằng "không ai bị can thiệp tùy tiện hoặc bất hợp pháp vào thư tín của mình". Điều này đòi hỏi rằng các biện pháp giám sát và kiểm duyệt đó phải đáp ứng những bảo đảm pháp lý chống lại sự áp dụng tùy tiện,... Hơn thế, mức độ áp dụng phải phù hợp với các tiêu chuẩn về đối xử nhận đạo đối với người bị giam theo yêu cầu tại Điều 10 (1) của Công ước. Đặc biệt, các tù nhân cần được cho phép liên lạc, dưới sự giám sát, với gia đình và bạn bè của họ theo định kỳ bằng thư tín cũng như bằng các chuyến thăm.
Tương tự, hành động từ chối việc gửi thư cho gia đình của tù nhân cũng bị coi là vi phạm Điều 10 (1), theo như kết luận của HRC đưa ra trong vụ Kulomin kiện Hungary (mã số 521/92).
Về tiếp xúc với thế giới bên ngoài, QTTCTT quy định tù nhân phải được phép tiếp xúc với gia đình và bạn bè tốt của họ vào những thời gian thường lệ, cả bằng thư từ lẫn thăm viếng, dưới sự giám sát cần thiết (đoạn 37).
Tù nhân là người nước ngoài phải được tạo điều kiện thuận lợi một cách thỏa đáng để tiếp xúc với các đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự của quốc gia của tù nhân đó. Tù nhân là công dân của một quốc gia không có đại diện ngoại giao hay lãnh sự ở quốc gia giam giữ và là người tỵ nạn hay người không có quốc tịch phải được phép tiếp xúc với đại diện ngoại giao của quốc gia chịu trách nhiệm về quyền lợi của họ hay với bất kỳ cơ quan quốc gia hay quốc tế nào có nhiệm vụ bảo vệ những người như vậy (đoạn 38).
Tù nhân phải thường xuyên được biết những tin tức quan trọng thông qua việc đọc báo, tạp chí định kỳ hay những ấn phẩm đặc biệt của nhà tù,
thông qua nghe đài, diễn thuyết hay bất kỳ biện pháp tương tự nào do ban quản lý nhà tù cho phép và kiểm soát (đoạn 39).
1.3. Bảo đảm quyền của phạm nhân ở một số nước trên thế giới
1.3.1. Bảo đảm quyền của phạm nhân ở Nhật Bản
Ở Nhật Bản, thi hành hình phạt ở dạng tước quyền tự do được điều chỉnh bằng Luật về nhà tù năm 1908. Ngoài ra có nhiều bổ sung đáng kể cho Luật này được ban hành vào năm 1933 bằng một sắc lệnh của Bộ trưởng về giáo dục tiến bộ trong các cơ quan chấp hành hình phạt. Sau gần 20 năm nghiên cứu về vấn đề cải cách, đến năm 1976 Bộ Tư pháp mới soạn thảo xong dự thảo những cơ sở cải cách Luật về nhà tù. Dự thảo này đã ghi nhận trong pháp luật quyền và nghĩa vụ của tù nhân [48, tr.216-221].
Trong quá trình cải tạo những người đang bị giam giữ trong các cơ quan chấp hành hình phạt người ta áp dụng rất nhiều những biện pháp khác nhau. Theo quy định, việc tự do di chuyển của tù nhân trong các trại cải tạo bị hạn chế. Tuy nhiên pháp luật Nhật Bản hiện hành không giải thích sự hạn chế đó đến mức nào về những quyền gì của tù nhân bị tước đoạt. Và vì thế trong quá trình đối xử với tù nhân và việc xử phạt kỳ luật tù nhân được thực hiện vô hạn độ. Tình trạng đó đã bị các nhà khoa học pháp lý phê phán kịch liệt, vì sự phê phán đó mà trong các dự án Luật về các cơ quan hình sự cũng điều chỉnh cả chế định quyền con người, chỉ rò những quyền mà tù nhân phải có như: Quyền mua sắm quần áo cho mình, mua thức ăn, các đồ nhu yếu phẩm,...
Chế độ giam giữ: Người ta tiến hành phân loại tù nhân theo lai lịch tội phạm, theo thời gian của hình phạt, tình trạng sức khỏe và các đặc điểm cá nhân khác.
Chế độ lao động: Ở Nhật Bản lao động chân tay chiếm vị trí có bản trong giáo dục cải tạo phạm nhân. Họ cho rằng sử dụng lao động chân tay trong nhà tù là nhằm thay đổi thói quen sống ăn bám ở ngoài xã hội của phạm nhân,