văn bản pháp luật khác. Những quy định về tội phạm, hình phạt, những quy định về thi hành bản án và quyết định của Tòa án được quy định trong Bộ Hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, các văn bản pháp luật khác mới ban hành, sửa đổi của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Phạm nhân không những được học tập mà còn được tham gia cuộc thi tìm hiểu pháp luật chung do Nhà nước tổ chức cho toàn dân. Thi tìm hiểu pháp luật là một trong những hình thức tiếp nhận, có hiệu quả tuyên truyền cao và được xem là một biện pháp quan trọng trong công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật.
Phạm nhân được tham gia thi tìm hiểu pháp luật là một dịp rất tốt để củng cố những kiến thức đã được học, nâng cao nhận thức, thái độ của bản thân trong việc chấp hành pháp luật, trước hết là ý thức chấp hành hình phạt tù trong trại giam. Thông qua cuộc thi tìm hiểu, nhận thức về pháp luật nói chung, về Bộ Luật dân sự, Luật phòng chống ma túy, về truyền thống lịch sử dân tộc,... nói riêng của phạm nhân được nâng lên. Các cơ quan hữu quan đánh giá cao và nhân dân cả nước đồng tình ủng hộ trong việc mở rộng các hình thức tổ chức, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho phạm nhân,...
Phạm nhân được nghe thời sự, được tuyên truyền, phổ biến giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, thông báo kịp thời các sự kiện chính trị, xã hội quan trọng trong nước và thế giới như thành công của các kỳ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, bầu cử Quốc hội,...
Sau các kỳ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam, các trại giam đều tổ chức hoặc mời Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, huyện ủy đến phổ biến những nét cơ bản nhất của đường lối, chính sách của Đảng thể hiện trong các văn kiện đại hội Đảng, kết quả thành công của các kỳ đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam và kết quả của việc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cho phạm nhân nhằm làm cho phạm nhân tin tưởng vào đường lối đổi
mới của Đảng, tiếp tục đi theo con đường Chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn. Kết quả và ý nghĩa chính trị của các cuộc bầu cử Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng được thông báo cho phạm nhân biết.
Ngay từ khi phạm nhân mới đến trại giam chấp hành hình phạt tù, cán bộ trại giam đã tổ chức rà soát, lập danh sách và thống kê số phạm nhân chưa biết chữ, chưa học xong chương trình tiểu học để có kế hoạch dạy văn hóa xóa mù chữ và phổ cập tiểu học cho phạm nhân.
Các trại giam đều chủ động liên hệ và có kế hoạch đề nghị với Phòng Giáo dục và Đào tạo hoặc Trung tâm giáo dục thường xuyên của huyện hoặc tỉnh, thành phố nơi trại giam đóng để phối hợp tổ chức dạy văn hoá xoá mù tỉnh phổ cập tiểu học và kiểm tra kết quả, chứng chỉ cho số phạm nhân đã học xong chương trình xóa mù chữ, chương trình tiểu học. Ở những địa phương không có giáo viên của ngành Giáo dục đến dạy văn hóa, các trại giam đều chủ động có kế hoạch mở lớp dạy văn hóa cho phạm nhân, cử cán bộ giáo dục hoặc quản giáo phụ trách để quản lý, đồng thời sử dụng những phạm nhân có trình độ học vấn, bồi dưỡng kiến thức sư phạm cho họ dạy văn hóa cho phạm nhân theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo hoặc Trung tâm giáo dục thường xuyên ở địa phương. Chương trình này đã giúp cho phạm nhân nâng cao được "dân trí", nhìn nhận lại bản thân và thế giới quan. Đặc biệt những phạm nhân chưa biết chữ được trại giam tổ chức dạy học, họ đã biết đọc, biết viết, có phạm nhân khi đã biết chữ họ viết thư về gia đình và chính gia đình họ đã viết thư cảm ơn trại giam rất nhiều.
2.2.7. Chế độ gặp thân nhân, gửi, nhận thư, quà, tiền, trao đổi thông tin bằng điện thoại và mua hàng tại căng tin
Trại giam tổ chức cho phạm nhân được gửi, nhận thư của thân nhân gia đình phạm nhân, được gửi tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ngân phiếu,
ngoại tệ gửi vào Sổ lưu ký; được nhận đồ vật nhu yếu phẩm. Để tạo điều kiện, giảm bớt khó khăn trong việc vận chuyển và tạo thuận lợi cho việc kiểm tra, kiểm soát các loại vật cấm, chất cấm, Giám thị trại giam đã có hình thức vận động, khuyến khích, động viên thân nhân phạm nhân mua hàng tại căng tin của trại giam để gửi cho phạm nhân.
2.2.8. Tạm đình chỉ thi hành án phạt tù, xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, đặc xá tha tù trước thời hạn
Nhiều trại giam đã cố gắng, nỗ lực để những trường hợp sau đây được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù theo quy định của pháp luật:
Phạm nhân bị bệnh nặng đến mức không thể tiếp tục chấp hành án phạt tù và nếu phải chấp hành án phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính mạng của họ, do đó, cần thiết phải cho họ tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù để có điều kiện chữa bệnh, trừ người không có thân nhân hoặc không có nơi cư trú rò ràng. Người bị bệnh nặng quy định tại khoản này là người mắc một trong các bệnh hiểm nghèo như: Ung thư giai đoạn cuối, liệt, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng, suy tim độ III trở lên, suy thận độ IV trở lên, nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn AIDS đang có nhiễm trùng cơ hội, không có khả năng tự phục vụ bản thân và có tiên lượng xấu, nguy cơ tử vong cao hoặc mắc một trong các bệnh khác được Hội đồng giám định y khoa, bệnh viện cấp tỉnh hoặc cấp quân khu trở lên kết luận bằng văn bản là bệnh hiểm nghèo, nguy hiểm đến tính mạng;
Nữ phạm nhân có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi trong trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, nếu họ bị xử phạt tù lần đầu và có nơi cư trú rò ràng;
Phạm nhân là người lao động có thu nhập duy nhất trong gia đình, nếu họ tiếp tục chấp hành án phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt (không có nguồn thu nhập nào khác, không có ai chăm sóc, nuôi dưỡng những người
thân thích là người già, trẻ em hoặc những người khác không có khả năng lao động trong gia đình họ), trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng;
Trong thời gian chấp hành hình phạt tù tại trại giam, phạm nhân được đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù nếu đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn và điều kiện như: thời gian chấp hành bản án và quá trình chấp hành bản án. Việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù có tác dụng giáo dục, khuyến khích phạm nhân tích cực thi đua, học tập, cải tạo tiến bộ, trở thành công dân có ích cho xã hội. Riêng trong năm 2012 đã có 87 phạm nhân được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù.
Bảng 2.1: Thống kê về hoãn chấp hành và tạm đình chỉ chấp hành thi hành án hình sự 2013-2014 tại Đắk Lắk
Hoãn chấp hành | Tạm đình chỉ | |
2013 | 70 | 10 |
2014 | 70 | 08 |
Tổng cộng | 140 | 18 |
Có thể bạn quan tâm!
- Quyền Liên Lạc Với Bên Ngoài, Vấn Đề Giam Kín Và Biệt Giam
- Bảo Vệ Quyền Của Phạm Nhân Ở Cộng Hòa Liên Bang Đức
- Những Kết Quả Đạt Được Trong Việc Bảo Đảm Quyền Con Người Của Phạm Nhân
- Chế Độ Sinh Hoạt Văn Hóa, Văn Nghệ, Thể Dục Thể Thao, Thông Tin
- Quyền Được Tạm Đình Chỉ Chấp Hành Án Phạt Tù, Giảm Thời Hạn Chấp Hành Án Phạt Tù, Và Đặc Xá Của Phạm Nhân
- Đổi Mới Cơ Chế Pháp Lý Để Giải Quyết Các Khiếu Nại, Tố Cáo Của Phạm Nhân
Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.
(Nguồn: Công an tỉnh Đắk Lắk (2013-2014), Phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp, Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp năm 2013-2014, Đắk Lắk).
Chính sách đặc xá tha tù trước thời hạn cho phạm nhân là một chính sách nhân đạo lớn của Đảng và Nhà nước ta trong công tác quản lý giam giữ, giáo dục người phạm tội. Đặc xá tha tù trước thời hạn được tiến hành nhân dịp ngày lễ, tết hoặc khi có sự kiện chính trị đặc biệt của đất nước. Trong thời gian chấp hành hình phạt tù, phạm nhân nào đủ điều kiện, tiêu chuẩn được xét đặc xá: về thời gian chấp hành bản án; quá trình chấp hành bản án đã chứng tỏ
quyết tâm học tập, cải tạo tiến bộ thì đều được đề nghị xét đặc xá. Công tác này tại Đắk Lắk đã được tiến hành khá tốt với số lượng 295 phạm nhân được đặc xá theo báo cáo của cơ quan có thẩm quyền [14].
2.2.9. Khiếu nại, tố cáo
Trong nhiều năm qua, các trại giam đã thực hiện tương đối tốt vấn đề giải quyết khiếu nại cho phạm nhân. Theo báo cáo, hàng năm có những đơn tố cáo có liên quan đến việc thực hiện chế độ chính sách đối với phạm nhân, trong đó có một số đơn tố cáo đúng sự thật, một số tố cáo đúng một phần; một số tố cáo sai và số còn lại cơ quan có thẩm quyền tiến hành xác minh nhưng không xác định được địa chỉ hoặc không có cơ sở để kết luận vụ việc.
2.3. Một số tồn tại, hạn chế trong việc bảo đảm quyền con người của phạm nhân và nguyên nhân
Qua các năm số phạm nhân ngày càng tăng lên, các phạm nhân chủ yếu được giam ở trại giam, phân trại quản lý phạm nhân ở trại tạm giam (còn gọi là phân trại giam) và số ít ở nhà tạm giữ.
Bảng 2.2: Thống kê số lượng phạm nhân tại các trại giam ở tỉnh Đắk Lắk
2010 | 2011 | 2012 | 2013 | 2014 | Tổng số | |
Số lượng phạm nhân | 1.000 | 1.302 | 1.133 | 1.193 | 1.277 | 5.905 |
(Nguồn: Công an tỉnh Đắk Lắk và các Trại giam thuộc Tổng cục VIII Bộ Công an)
Bảng 2.3: Thống kê số lượng phạm nhân tại trại giam Công an tỉnh Đắk Lắk
2010 | 2011 | 2012 | 2013 | 2014 | Tổng số | |
Số lượng phạm nhân | 120 | 147 | 156 | 161 | 169 | 753 |
(Nguồn: Công an tỉnh Đắk Lắk)
Mặc dù Nhà nước đã đặc xá tha tù cho nhiều phạm nhân, nhưng qua
các năm số phạm nhân vẫn có xu hướng tăng lên, không chỉ ở trại giam mà cả tăng cả ở phân trại giam, nhà tạm giữ. Điều này cho thấy số lượng người phạm tội ngày càng tăng và tình hình tội phạm rất phức tạp, đòi hỏi phải có sự quan tâm hơn nữa đến công tác thi hành án hình sự để giáo dục cải tạo phạm nhân có hiệu quả hơn, đồng thời đảm bảo quyền của phạm nhân. Bảng 2 và Bảng 3 đã cho thấy tỷ lệ phạm nhân vào chấp hành án tại các trại giam từ năm 2010 đến năm 2014 có sự gia tăng đáng kể.
Các thành phần phạm nhân cũng rất phức tạp thể hiện qua loại tội, mức án, các phạm nhân bị nhiễm HIV/AIDS, phạm nhân nghiện ma túy, phạm nhân là người nước ngoài.
Về mức án, nhìn chung số phạm nhân có mức án cao trên 20 năm và tù chung thân có tỷ lệ thấp.
Bảng 2.4: Thống kê số lượng các phạm nhân theo thời gian giam giữ
Dưới 3 năm | Từ 3- 7 năm | Từ 7 - 15 năm | Trên 15 năm | Chung thân | |
Năm 2010 | 451 | 285 | 164 | 78 | 22 |
Năm 2011 | 634 | 371 | 169 | 101 | 27 |
Năm 2012 | 525 | 299 | 193 | 97 | 19 |
Năm 2013 | 449 | 392 | 206 | 114 | 32 |
Năm 2014 | 536 | 375 | 199 | 139 | 28 |
(Nguồn: Công an tỉnh Đắk Lắk)
Phạm nhân là người nước ngoài: Do bất đồng về ngôn ngữ, văn hóa và đa dạng về quốc tịch, một số phạm nhân không chịu khai nhận, không có giấy tờ để xác định quốc tịch hoặc có quốc tịch nhưng Đại sứ quán không nhận nên gặp nhiều khó khăn trong thủ tục trả tự do [4, tr.2-14].
Do tính chất đặc thù, từ năm 1990 đến nay, thực hiện chế độ nghĩa vụ tại ngũ và chế độ công dân phục vụ có thời hạn trong Công an nhân dân, nguồn bổ sung biên chế chủ yếu của lực lượng Cảnh sát trại giam là số công
dân phục vụ có thời hạn (trên 18 tuổi, đã tốt nghiệp PTTH, đăng ký tham gia phục vụ có thời hạn 03 năm), hết hạn phục vụ tại ngũ được chuyển sang chế độ chuyên nghiệp. Mặc dù, sau khi được chuyển sang chế độ chuyên nghiệp sẽ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng, nhưng nhìn chung do trình độ đầu vào thấp nên mặt bằng trình độ học vấn, cũng như trình độ nghiệp vụ của số cán bộ này còn thấp, ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình giáo dục, cải tạo phạm nhân (xem bảng 2.4). Phân tích các bảng thống kê cho thấy phần nào thực trạng về trình độ cán bộ ở các trại giam nói chung và thực trạng cụ thể ở các trại giam có phạm nhân người nước ngoài. Số cán bộ chưa qua đào tạo và có trình độ sơ học chiếm tỷ lệ khoảng 50% tổng số cán bộ. Những cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học trở lên và đã qua đào tạo chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 10%. Thực trạng này là một trong những tồn tại lớn, ảnh hưởng lớn đến công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân cũng như việc bảo đảm quyền cho họ.
Bảng 2.5: Thống kê trung bình chung hàng năm số lượng và trình độ cán bộ trực tiếp tiến hành công tác hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân trong Trại giam Đắk Trung từ năm 2010 đến năm 2014
Tổng số cán bộ | Sau đại học | Đại học | Trung học | Tốt nghiệp trường ngoài | |
Ban Giám thị trại giam | 06 | 2 | 4 | ||
CB Giáo dục | 55 | 20 | 35 | ||
CB Quản giáo | 60 | 25 | 35 | ||
CB đội kế hoạch sản xuất | 100 |
2.3.1. Về chế độ giam giữ
Khi thi hành pháp luật về tổ chức giam giữ phạm nhân phân loại theo Điều 27 Luật thi hành án hình sự, ở một số cơ sở chấp hành án phạt tù còn
chưa thực hiện đúng quy định, có trại giam chỉ đánh số buồng giam mang tính hình thức, một số trại giam chưa cập nhật đầy đủ số phạm nhân..
Với việc tổ chức giảm giữ quản lý phạm nhân như vậy đã vi phạm quyền của phạm nhân, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của phạm nhân, thậm chí để phạm nhân chết [14] như tại trại tạm giam, nhà tạm giữ thành phố Buôn Ma Thuột, Krông Ana, Ea Sup. Vẫn có hiện tượng đánh nhau, cố ý gây thương tích và vi phạm quyền của phạm nhân khác.
Như vậy, trong việc thực hiện và áp dụng pháp luật thi hành án hình sự, sự can thiệp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các cơ quan thi hành án chưa kịp thời để ngăn chặn những hành vi vi phạm quyền của phạm nhân. Những tồn tại này là do vi phạm chế độ giam giữ phạm nhân ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền của phạm nhân trong hoạt động thi hành án hình sự.
2.3.2. Về chế độ ăn
Những vi phạm về chế độ ăn uống của phạm nhân chủ yếu bộc lộ ở việc chưa đảm bảo định lượng, khẩu phần ăn cho phạm nhân theo quy định, chưa phân biệt chế độ ăn giữa các loại phạm nhân. Mặc dù theo số liệu tại Bảng 5 thể hiện về chế độ ăn đầy đủ, nhưng bằng các phương pháp điều tra xã hội học, phỏng vấn và chuyên gia cho thấy vẫn còn những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện chế độ ăn của phạm nhân.
Bảng 2.6: Chế độ ăn của các phạm nhân
2010 | 2011 | 2012 | 2013 | 2014 | |
Đủ | X | x | x | x | x |
Chưa đủ |
Qua khảo sát 1.000 phạm nhân [20, tr.53] ở 10 trại giam thuộc Bộ công an quản lý cho thấy có 29,5% số phạm nhân cho rằng tiêu chuẩn ăn hàng tháng chưa được bảo đảm; 5,5% cho rằng tiêu chuẩn ăn đầy đủ và 65% không xác định được ăn như vậy có đảm bảo hay không. Cũng qua khảo sát thăm dò