tin vào chính mình, tin rằng với con người thì không gì là không thể trở thành hiện thực.
Bên cạnh những kết thúc có hậu thì một số truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh có kết thúc mở. Đó là những truyện Con đường dài lắm, Đêm tháng tám. Câu chuyện Con đường dài lắm kể về số phận đáng thương của hai anh em thằng Trong. Vì mồ côi cha mẹ và em lại bị mù nên Trong phải tìm mọi cách lo chữa mắt cho em. Nó cõng em đi qua bao con suối, cánh rừng để mong tìm được thầy thuốc chữa bệnh. Hai anh em giờ trở nên cô độc giữa cõi đời. Cha mẹ mất đi, Trong là chỗ dựa duy nhất cho em gái của mình. Chứng kiến cảnh em gái bị người ta hành hạ, Trong không chịu được nên quyết tâm đưa em đi xa để chữa cho đôi mắt của em. Kết thúc truyện là hình ảnh hai anh em dắt nhau đi dưới trời nắng. Vì cõng em đi qua nhiều nẻo đường, vượt qua nhiều núi rừng vất vả nên Trong đã ngủ thiếp đi. Tỉnh dậy, nó giật mình khi thấy cái Đục mồ hôi nhễ nhại. Hai anh em đi tìm nước uống. Hoàn cảnh của hai đứa trẻ bơ vơ thật đáng thương. Vì thương anh nên Đục không đành lòng để anh cõng. Nó đồng ý để thằng Trong dắt đi. Những lời nói của đứa em gái bé bỏng với anh trai khiến người đọc không thể không động lòng và rơi nước mắt: “Anh dắt em đi. Đường còn dài lắm”. Quả thật, con đường phía trước còn dài lắm, con đường của số phận, của tương lai vẫn còn mờ mịt và có biết bao chông gai thách thức với hai anh em. Chúng chỉ là những đứa trẻ mồ côi không nơi nương tựa, rồi đây cuộc sống biết bấu víu vào đâu và xoay sở ra sao ? Kết thúc bỏ ngỏ gợi cho người đọc những liên tưởng, suy nghĩ khác nhau. Không biết tương lai của hai anh em sẽ ra sao ? Liệu hai anh em thằng Trong có vượt qua được tất cả sóng gió của cuộc đời ? Có thể nói cách kết thúc mở đã làm phong phú thêm cho giá trị tư tưởng thẩm mĩ của truyện ngắn, đồng thời khơi dậy được sự sáng tạo và đồng điệu trong cách tiếp nhận của độc giả.
Nghệ thuật xây dựng cốt truyện có hậu cũng là một trong những sự kế thừa và tiếp nối truyền thống văn học của dân tộc Mường. Đó cũng chính là biểu hiện của dấu ấn văn hoá Mường trong nghệ thuật truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh. Tuy nhiên, bên cạnh việc tiếp thu yếu tố truyền thống thì nghệ thuật xây dựng cốt truyện của Hà Thị Cẩm Anh cũng có nhiều sáng tạo. Những cốt truyện theo kết cấu đảo ngược đã diễn tả sâu sắc những uẩn khúc, éo le trong số phận của những con người chịu nhiều oan khuất. Có thể nói, Hà Thị Cẩm Anh không chỉ có công sức trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mình mà còn góp phần đổi mới tư duy văn xuôi dân tộc thiểu số.
3.1.2. Yếu tố ngoài cốt truyện
“Yếu tố ngoài cốt truyện (thuộc về các thành phần trần thuật có tính chất tĩnh tại) tuy không tham gia vào hệ thống sự kiện tạo thành cốt truyện nhưng vẫn có sức mạnh hỗ trợ cho cốt truyện và tăng sức hấp dẫn của cốt truyện. Các nhà văn giàu kinh nghiệm thường quan tâm khai thác yếu tố tương đối độc lập này, dành cho nó một địa vị xứng đáng trong tác phẩm. Với văn xuôi miền núi, đó là những “đặc sản” như thiên nhiên tuyệt mĩ và các bài ca, câu chuyện dân gian huyền ảo tồn tại nhiều đời trong tâm thức các dân tộc” [26, tr.124]. Thật vậy, không chỉ cốt truyện mới quan trọng mà yếu tố ngoài cốt truyện cũng góp phần thể hiện rõ bản sắc văn hoá Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh. Yếu tố ngoài cốt truyện chính là những “chi tiết, bộ phận thuộc nội dung của các tác phẩm văn học thuộc loại hình tự sự, nằm ngoài hệ thống sự kiện tạo thành cốt truyện” [15, tr.433].
Bên cạnh việc sáng tạo và đổi mới cốt truyện theo hướng hiện đại, những trang viết của Hà Thị Cẩm Anh vẫn đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc bởi có sự đan xen của những yếu tố ngoài cốt truyện. Dường như việc đưa những yếu tố ngoài cốt truyện vào các truyện ngắn vừa làm cho mạch tự sự như chùng xuống, giãn ra, bớt căng thẳng vừa đánh thức trong người đọc những truyền
thống văn hoá, những câu chuyện thần thoại, truyền thuyết của người Mường có thể đang bị ngủ quên trong tâm thức của bao con người thời đại hôm nay. Người Mường lớn lên bằng những bài xường ru và ra đi vào cõi vình hằng vẫn không quên mang theo những điệu hát xường nồng nàn da diết. Bởi vậy, trong rất nhiều truyện ngắn, Hà Thị Cẩm Anh đã đưa vào những đoạn xường để góp phần bộc lộ nỗi niềm của nhân vật. Trong Cây gội già tàn tật, cô gái có khuôn mặt dị dạng đã nhớ về lời xường ru của bà trong lúc cô đang cô đơn nhất: “Lêu lêu lằng lôộc…lôộc, xôn môống lá con Cài ngoan. Xôôn môống lá con Cài đẹp. Xôn đẹp nhất Mường Vang…Xiềng thơm Păn chín phú Mường Mướng” [3, tr.16]. Cũng vì nỗi đau gia đình tan vỡ mà mẹ thằng In trong Đứa con trai bị điên. Nhưng trong lòng bà vẫn không sao quên được những câu xường thời trẻ khi đôi lứa hát ghẹo nhau: “Xương xiệt, xương nồng ún à. Xương xiệt, xương nồng ún ơi…!” [6, tr.144]. Ở truyện ngắn Quả còn, Hà Thị Cẩm Anh còn đưa vào bài xường xin mở cổng của ông Mơ trong đám cưới của chàng trai Mường:
“Tháng tốt ngày lành
Xin các vị nhà bên ngoại
Cho con nhà chúng tôi lên cửa, lên nhà Để anh em hai họ gần nhau
Có thể bạn quan tâm!
- Cảm Hứng Về Những Phong Tục, Tập Quán Mang Đậm Bản Sắc Văn Hoá Mường
- Cảm Hứng Về Thiên Nhiên Mang Đặc Trưng Vùng Miền
- Thiên Nhiên Gắn Bó, Hoà Hợp Với Con Người Miền Núi
- Bản sắc văn hóa Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh - 11
- Hệ Thống Ngôn Ngữ Gắn Với Con Người Và Cuộc Sống Xứ Mường
- Bản sắc văn hóa Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh - 13
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
Bên đĩa trầu cau nói chuyện,
Xin các cậu các dì đừng ném nhiều
Ném nhiều trâu đứt chạc, xanh nồi sứt mẻ Chúng tôi có khiêng cơm, xin mời, xin biếu
Xin được mở cổng cho lên cửa, lên nhà” [4, tr.17].
Có thể nói, tiếng hát xường như một món ăn tinh thần của người Mường. Trong các dịp lễ hội, những câu hát xường chính là tiếng gọi của tình yêu đôi lứa. Còn trong đời sống thường ngày, điệu xường ru là nơi thác gửi gắm bầu tâm sự buồn - vui, hạnh phúc - đau khổ của người phụ nữ Cũng trong truyện ngắn Quả còn, những lời hát xường đã góp phần thể hiện tâm trạng của người
phụ nữ bao năm phải sống trong nỗi cô đơn vì bị coi là vợ ma. Gặp được chàng lính trẻ thương yêu chị chân thành, chị bồi hồi xúc động và quên đi thân phận của mình. Lời xường của chị tràn đầy niềm tin và thể hiện khát khao hạnh phúc cháy bỏng:
“Thương thiệt. Thương nồng anh ơi Thương mơi anh à !
Em ở nhà ra đi
Bước qua cầu Mường Bi lai láng
Đã qua cầu Mường Báng thênh thang Nước sông lênh láng
Chảy thành sông Ngang, bến Đuộng Em theo ngả đi lên
Em theo đường đi xuống. Tới đường anh.
Đường anh đi dài dài Đất đẹp, quê giầu
Qua nhiều ghềnh nhiều thác. Đường anh đi có đạn có bom
Hòn đá thì mềm chân anh thì cứng
…” [4, tr.22].
Đáp lại lời xường của cô gái, chàng trai cũng hát bài xường có làn điệu nhịp nhàng, vui tươi thể hiện tình yêu nồng nàn và quyết tâm phá bỏ mọi tập tục cổ hủ để đến với người thương:
“…
Thương thiệt. Thương nồng em ơi ! Thương mơi em à
Nghe lời em xường vui như tiếng cồng ba Nghe lời em ca ấm như tiếng cồng bẩy
Em bước qua cầu nhịp cầu im lặng.
Em bước qua chặng, chặng cầu thênh thang Em đến ngũ, đến hàng
Cả đoàn người vui đón
Em không phải lo chi điều khốn. Em không phải lo chi điều khó.
Em không phải lo chi luật nọ điều kia
Em cứ xường cho đường hành quân ngắn lại Em cứ rang cho cơn buồn ngủ qua đi
Anh đang chờ, đang đợi
Tiếng xường của người Mường xa mới tới.
…” [4, tr.23]
Đối với người Mường, những lời xường ru có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần. Bởi vậy, mỗi khi con người gặp chuyện vui hay buồn thì họ đều có thể cất lên những câu xường để phơi trải nỗi niềm. Khi thằng Sinh trong Những đứa trẻ mồ côi thương em bị ốm mà không biết làm cách nào, nó chỉ biết hát những câu xường ru em: “Lêu lêu lằng…lôộc, ún nhá ái tảy ngoan, ún à ! Lêu lêu lằng lôộc…lôộc, ún nhá ái tảy ngoan, ún ơi !” (Ru ru hời, em gái anh ngủ ngoan em nhé! Em gái anh ngủ ngoan em ơi !” [2, tr.29]. Khi em gái khóc, thằng Sinh lại hát bài xường ru em ngủ và gửi gắm trong lời xường là ước mơ về một nguời em gái ngoan, đảm đang và xinh đẹp: “Em gái anh là một cô gái nhỏ…Em gái anh là một đứa trẻ ngoan, lớn lên em gái thành một cô gái đẹp. Cô gái đẹp sờ tay lên khung cửi. Nhà sàn có hoa nở. Thang nhà có tiếng nai kêu. Con mang tác gọi bầy buổi sớm. Người con trai Mường đứng đợi em ở ngoài bờ con suối chảy buổi chiều. Lêu lêu lằng lôộc…lôộc…ún ơi…Sim à !” [2, tr.30].
Như vậy, những bài hát dân ca Mường với vai trò là một yếu tố ngoài cốt truyện không chỉ góp phần thể hiện tâm trạng của nhân vật mà còn khơi dậy hồn sắc của văn hoá dân tộc Mường, làm cho nội dung của tác phẩm thêm
phong phú. Qua đó, ta cũng thấy được sự am hiểu sâu sắc vốn văn hoá dân tộc của nhà văn.
Tuy nhiên, bên cạnh những bài xường thì yếu tố ngoài cốt truyện còn được thể hiện ở việc tác giả đưa vào các truyện ngắn những mẩu chuyện thần thoại, truyền thuyết của dân tộc Mường. Thần thoại của người Mường kể rằng Mụ Dạ Dần là người đầu tiên xuất hiện trên mặt đất khi có tiếng nổ phân khai trời đất. Bời vậy, có rất nhiều tích truyện không phải là thần thoại sau này đã nói đến mụ Dạ Dần như một biểu tượng mẫu mực cho mọi quyền uy, có phép thần thông biến hoá, có sức mạnh chinh phục vô song. Và khi thằng In trong “Đứa con trai” lí giải về sự xuất hiện của vệt rừng nhỏ chạy ven sông cũng đã thần thánh hoá về mụ Dạ Dần: “In kể với mế rằng, vệt rừng nhỏ chạy dọc theo con sông, quanh năm xanh tốt um tùm, và ồn ào tiếng trẻ con, tiếng chim hót, có lẽ đã được mụ Dạ Dần ở Mường Trời sai một vị thần linh dũng mãnh nhất, thiêng liêng nhất của người Mường đem từ rừng Pù Hú thăm thẳm núi non xuống đặt ở đấy để ngăn bớt sự cuồng loạn của con sông mang tên loài Ngựa vào những mùa nước lũ đã trống trơ !” [6, tr.169]. Cũng trong truyện ngắn này, nhà văn còn nhắc đến truyền thuyết của loài rắn. Trên đường đi tìm thuốc chữa bệnh cho mế, thằng In rất sợ hãi khi nhớ lại truyện cũ tích xưa về loài rắn: “Ở Mường Dồ có rất nhiều truyền thuyết về loài rắn này. Người già bảo đây là một loại ngựa của quan binh nhà Trời. Quan giám sát rừng xanh. Có người lại nói đó là quan, lính của nhà Lang Cun Cần” [6, tr.180].
Trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh, ta thấy có sự xuất hiện dấu ấn của một số truyện cổ Mường. Chẳng hạn, trong Những đứa trẻ mồ côi, câu chuyện cổ có liên quan đến rùa đá – con vật thiêng được coi là tổ tiên của người Mường cũng được nhắc đến: “Bà ngoại Vạ Cúc kể rằng: Ngày xưa trời và đất còn ở gần nhau, người Mường còn phải ở trong hang đá, còn phải ăn cỏ cây. Lang Cun Cần phải đem Chu Chiêng Mường Nước đi tìm đất, tìm mường, chính rùa đá đã dạy cho Chu Chiêng Mường Nước biết cách làm nhà theo hình
của chính nó... Rùa đã già cả ngàn năm tuổi mới chết đi. Con người tiếc thương mang linh hồn rùa thiêng về cho ở Mường Trời, chỉ giữ lại cái mai rồi lập đền thờ phụng, để con Mường trong, cháu Mường ngoài dù có đi đâu, về đâu cũng không quên được con vật thiêng, không quên nguồn gốc của mình” [2, tr.84].
Có thể nói, việc đưa các tích truyện cổ và những bài xường vào các truyện ngắn vừa khơi dậy bầu không khí thiêng liêng của văn hoá dân gian vừa làm phong phú cho nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Điều đó thể hiện sự am hiểu sâu sắc về cội nguồn văn hoá dân tộc của nhà văn. Nhờ vậy mà các sáng tác của nhà văn đã đọng lại dư vị sâu đậm và có sức hấp dẫn với độc giả.
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng khẳng định: văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Mỗi nhà văn lại có cái nhìn và có quan niệm nghệ thuật khác nhau về con người. Quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người được thể hiện rất rõ qua hệ thống nhân vật trong các sáng tác của họ. Nhân vật văn học là phương tiện để nhà văn khái quát hiện thực cuộc sống, thể hiện cái nhìn, tư tưởng của mình về con người và cuộc sống. Chúng ta biết rằng mỗi nhà văn đều là con đẻ của một dân tộc nhất định nên quan niệm nghệ thuật về con người cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ quan niệm thẩm mĩ của dân tộc mình. Dường như được tắm mình trong văn hóa và văn học dân gian truyền thống nên nghệ thuật xây dựng nhân vật trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện cổ dân gian.
3.2.1. Xây dựng thế giới nhân vật phân cực tốt - xấu
Đọc các sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh, ta nhận thấy một nét nổi bật trong nghệ thuật khắc hoạ tính cách nhân vật, đó là chịu sự ảnh hưởng bởi truyện cổ dân gian: tính cách bộc lộ chủ yếu qua hành động và có sự phân tuyến đối lập giữa tốt và xấu. Đây cũng là đặc điểm chung của nghệ thuật xây dựng nhân vật trong văn xuôi các dân tộc thiểu số: “Xây dựng nhân vật phân cực thiện – ác là đặc điểm của nhiều tác phẩm văn xuôi DTTS. Về cơ bản, các
nhân vật tốt / thiện / chính diện trong văn xuôi các DTTS đều hiện lên với những nét tính cách na ná nhau: hiền lành, tốt bụng, giàu lòng nhân ái, vị tha, sẵn sàng giúp đỡ người khác…Ngược lại các nhân vật xấu / ác / phản diện đều là những kẻ ngu dốt, tham lam, ích kỉ, thủ đoạn, độc ác…” [29, tr.78]. Trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh, ta thấy có những nhân vật chính diện như được tắm mình trong bầu ánh sáng trong suốt của cái thiện, của lòng nhân ái, đức hy sinh và vị tha. Đó là đức hy sinh vì người khác của vạ Lủ trong Sông trôi lặng lẽ. Cả cuộc đời vạ sống trong oan khuất, nuôi con cho kẻ đã cướp đi của vạ tất cả danh dự, phần thưởng và nhất là hạnh phúc, tương lai của vạ. Thế nhưng vạ không bao giờ căm hận hay tìm cách trả thù người phụ nữ thủ đoạn đó. Đối lập với vạ Lủ chính là Thịnh – con trai của người phụ nữ đã lấy đi mọi thành quả của vạ. Thịnh vốn là kẻ cơ hội và tham lam giống hệt người mẹ đã sinh ra hắn. Khi vạ Lủ ốm, Thịnh đưa bà vào viện rồi đánh tiếng là mẹ ốm rất nặng để mọi người đến thăm và hắn nhận phong bì phong bao tới tấp. Hắn là người có quyền hành nhưng lại lợi dụng chức vụ để làm giàu nên chẳng mấy chốc đã trở nên hư hỏng.
Hầu như những nhân vật trong các truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh đều được xây dựng theo sự phân tuyến đối lập. Những nhân vật này thường mang một tính cách thiện hoặc ác từ đầu đến cuối tác phẩm mà không có sự xáo trộn giữa thiện – ác như các nhân vật lưỡng diện. Đọc Chuyện xưa, ta thấy hai nhân vật ở hai tuyến đối lập nhau đó là vạ Cát - đại điện cho những điều tốt đẹp và nhân vật Giáp - đại điện cái xấu. Vạ Cát vốn là người phụ nữ thật thà, tốt bụng và giàu đức hy sinh nhưng lại luôn chịu nhiều thiệt thòi. Vạ đã từng bị ông Giáp gài bẫy để lấy lí do bỏ vạ. Bao năm vạ sống trong nỗi oan mà không chịu kêu oan. Đã vậy, vì mang ơn ông Giáp đã cứu lấy danh dự mà vạ phải biếu không cho lão mười bẩy tấn cá. Nhưng vạ Cát lúc nào cũng nghĩ tốt cho người chồng đã từng bỏ rơi mình. Đối lập với vạ Cát thật thà là nhân vật lão Giáp - một kẻ gian xảo, mưu mô, thủ đoạn và thực dụng. Lão tìm mọi cách để có