Tình Hình Áp Dụng Biện Pháp Cấm Đi Khỏi Nơi Cư Trú


người chưa thành niên lại là vấn đề khó hơn nhiều so với đặc tình là người đã thành niên, đây là vấn đề cần phải cân nhắc và lựa chọn cho phù hợp đảm bảo được yêu cầu điều tra và những quy định về tạm giam.

Tóm lại, việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành niên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự là một điều cần thiết. Song bên cạnh những kết quả đã đạt được, cơ quan CSĐT tỉnh Hà Tây phải nâng cao hơn nữa hiệu quả tác dụng của biện pháp ngăn chặn để khắc phục những hạn chế như đã nêu ở trên.

2.3.4. Tình hình áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú


Do đặc điểm tình hình kinh tế xã hội, dân cư, địa bàn, địa giới hành chính của tỉnh Hà Tây với các tỉnh giáp gianh, địa bàn các huyện cách xa nhau… Nên có ảnh hưởng rất lớn đến việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người chưa thành niên phạm tội.

BLTTHS xác định biện pháp ngăn chặn này với mục đích là ngăn chặn tội phạm và trên phương diện điều tra vụ án hình sự để phân biệt với các hoạt động phòng ngừa tội phạm, Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, và cuộc vận động toàn dân tham gia quản lý, giáo dục, cảm hóa những người lầm lỗi tại cộng đồng dân cư.

áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú có ý nghĩa là nó tác động đến tình cảm, ý thức của người bị áp dụng, đồng thời xét về phương diện giá trị kinh tế nó vừa làm giảm số lượng bị can ở trại tạm giam vừa để cho bị can được sống trong cộng đồng dân cư, tạo điều kiện cho họ có trách nhiệm với gia đình và xã hội. Họ tự lao động sản xuất tại nơi cư trú của mình, giảm bớt chi phí cho nhà nước. Đây là một biện pháp thể hiện sự mềm dẻo của pháp luật, thể hiện tính nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta, trong hoạt động áp dụng biện pháp ngăn chặn này đối với người chưa thành niên phạm tội.

2.3.4.1. Thực trạng việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi trú


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

Trong số liệu thống kê báo cáo hàng năm của cơ quan CSĐT công an tỉnh


Áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hà Tây của cơ quan Cảnh sát điều tra - 10

Hà Tây cũng có áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú nhưng số liệu này được đưa gộp vào các đối tượng không còn áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam nhập chung thành nhóm "cho tại ngoại", trường hợp này chiếm một tỷ lệ không nhỏ khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đây là vấn đề khó khăn cho việc nghiên cứu cụ thể.

Với số lượng là 36 đối tượng được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú trong tổng số 870 người chưa thành niên phạm tội chiếm 5% cho thấy: Lực lượng CSĐT công an tỉnh đã quan tâm đến việc thay đổi biện pháp ngăn chặn, trong đó không áp dụng biện pháp có tính nghiêm khắc cao chuyển sang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú để cho người bị áp dụng thấy được sự khoan hồng, tính nhân đạo của Nhà nước và có tác dụng động viên đối với họ. Đặc biệt, đây là biện pháp kích thích đối với bị can khác trong hoạt động điều tra vụ án. CQĐT công an tỉnh có thể sử dụng biện pháp này để hoạt động nghiệp vụ tác động lên tâm lý của bị can, hoặc rút đặc tình ra khỏi trại giam... Vấn đề này đã được lực lượng điều tra công an tỉnh thực hiện khá tốt.

Khi áp dụng biện pháp này, CQĐT công an tỉnh đã phân tích đánh giá được các điều kiện, tình hình có liên quan đến quyết định áp dụng như: Đặc điểm nhân thân của bị can, tình hình giải quyết vụ án, yêu cầu của việc điều tra và thực tế địa bàn nơi bị can cư trú để tránh tình trạng "thả hổ về rừng". Dưới góc độ kinh tế thì việc hàng năm cho một số lượng hàng trăm bị can được "tại ngoại" là một số lượng sản phẩm được làm ra từ bàn tay của họ rất lớn do đặc điểm chủ yếu số đối tượng này thường là có sức khỏe tốt "tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu" đồng thời tạo điều kiện cho họ học tập, lao động tự rèn luyện... Hơn nữa đơn vị hành chính ở địa phương như xã, phường hiện nay hoạt động rất tích cực và có hiệu quả. Chính đó là ưu thế của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

2.3.4.2. Những tồn tại trong việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư

trú


- Những tồn tại về mặt pháp lý


Trong điều luật chưa quy định một cách chặt chẽ đầy đủ về căn cứ, thủ tục áp dụng, cũng như mối quan hệ phối kết hợp trong việc giám sát thực hiện biện pháp này. Chẳng hạn, sự phối hợp giám sát theo dòi, quản lý đối tượng tại địa phương như thế nào, thông tin cung cấp lưu hồ sơ ra sao, trách nhiệm phải cụ thể... Điều kiện được áp dụng đối với bị can bị cáo nào. Không thể quy định một cách chung chung: "Bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan không đi khỏi nơi cư trú của mình, phải có mặt theo giấy triệu tập". Do vậy, trong hoạt động điều tra vụ án khi Điều tra viên hoàn tất các thủ tục pháp lý để đề nghị quyết định áp dụng biện pháp này dễ nẩy sinh tư tưởng e ngại, lúng túng, sợ bị hiểu nhầm...

- Những tồn tại trong thực tiễn áp dụng


+ Xuất phát từ thực tế xác định việc tại ngoại, các cách giải thích chưa thật đúng đắn do vậy nhận thức về biện pháp này còn hạn chế, cho nên cơ quan áp dụng có tư tưởng thả nổi đối tượng hoặc xem đó là một sự hàm ơn ban phát, làm nảy sinh các sai phạm trong hoạt động tố tụng.

+ Nơi cư trú được hiểu theo nhiều cách cắt nghĩa khác nhau, đồng thời việc xác định nơi cư trú theo địa giới hành chính cũng có sự bất cập. Khi họ ở nơi giáp ranh giữa huyện này huyện khác…Thì giải quyết như thế nào?

Nơi cư trú là nơi người đó được đăng ký hộ khẩu thường trú, hay tạm trú lâu dài? Đây là vấn đề do điều kiện kinh tế - xã hội mà hiện nay đang được quan tâm. Nhiều hộ gia đình sống đã hàng chục năm mà chưa được đăng ký hộ khẩu, vì vậy mối quan hệ ràng buộc giữa người đó với chính quyền sở tại sẽ chưa phát huy được tốt.

Nếu giới hạn nơi cư trú ở phường, xã, thị trấn thì chẳng lẽ người áp dụng biện pháp này chỉ được tự do đi lại sinh hoạt trong phạm vi nhỏ hẹp đó hay sao? Có quan điểm khác lại cho rằng, nơi cư trú là quận, huyện... Vậy thì địa giới hành chính có ý nghĩa như thế nào, việc xác định phạm vi họ được tự do đi lại trong đó?

+ Các vi phạm nghĩa vụ cam kết của bị can sẽ được cơ quan có thẩm quyền


thay đổi biện pháp ngăn chặn khác nghiêm khắc hơn, song thực tế phải xác định theo điều kiện của sự vi phạm đó, đến giới hạn của việc cần ngăn chặn. Họ phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý của công dân vào thời điểm đó được xác định như thế nào...

Tóm lại, biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người chưa thành niên phạm tội đã đem lại một số kết quả nhất định song vẫn tồn tại những vướng mắc nhất định nên cần phải tìm hiểu sâu sắc hơn, kỹ càng hơn.


2.3.5. Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh


Cũng như các biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm thì biện pháp bảo lĩnh cũng là một trong những biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc, để đối tượng bị áp dụng được sống chung với cộng đồng, trong sự kèm cặp, giáo dục, quản lý giúp đỡ của người nhận bảo lĩnh hoặc tổ chức đã bảo lĩnh kể cả gia đình của họ. Như vậy, ở đây là sự gắn kết ba mối quan hệ pháp lý trong hoạt động tố tụng hình sự.

Thứ nhất: Mối quan hệ quyền uy trong phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng hình sự - cơ quan tiến hành tố tụng có quyền quyết định cho áp dụng biện pháp này.

Thứ hai: Bị can bị cáo là người được áp dụng biện pháp này, họ được trở lại cộng đồng để tự do đi lại sinh hoạt, lao động sản xuất.

Thứ ba: Người (cá nhân) tổ chức đứng ra bảo lĩnh có nghĩa vụ pháp lý từ khi có quyết định cho bảo lĩnh. ở đây chúng ta thấy sự ưu việt của biện pháp này là tạo điều kiện cho những người khác phát huy trách nhiệm cá nhân của mình tham gia vào quản lý giáo dục ngăn ngừa bị can, bị cáo phạm tội hoặc gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.

2.3.5.1. Thực trạng việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh


Trong các báo cáo thống kê của CQĐT công an tỉnh không phân biệt cụ thể loại biện pháp này, nhưng qua trao đổi, tìm hiểu và phát hiện trong hồ sơ vụ án thì


biện pháp bảo lĩnh có được áp dụng song không nhiều, khoảng 146 trường hợp trong tổng số 870 đối tượng người chưa thành niên phạm tội chiếm 21%, chủ yếu là giao cho gia đình quản lý giáo dục. áp dụng biện pháp này, CQĐT thực hiện trên cơ sở sự tự nguyện của người nhận bảo lĩnh thông thường khi hoàn cảnh gia đình có tình huống nào đó, hoặc dịp tết cổ truyền vì tình cảm gia đình, quê hương nên họ đã đến CQĐT để xin bảo lĩnh cho con, em, người thân... của mình được về đoàn tụ cùng nhau. Đó là đặc điểm tâm lý của người nhận bảo lĩnh. Vấn đề này cần được CQĐT tỉnh khai thác để tác động lên tâm lý ý thức của bị can. Lấy đó làm nội dung giáo dục thuyết phục, góp phần nâng cao khả năng sử dụng phương pháp chiến thuật trong hỏi cung bị can.

Về mặt lý luận, bảo lĩnh là biện pháp rất ưu việt, thông qua đó sẽ lôi cuốn được người dân tham gia vào hoạt động phòng ngừa,ngăn chặn tội phạm ở người chưa thành niên. Đồng thời gắn trách nhiệm giữa người nhận bảo lĩnh với người được bảo lĩnh và thể hiện được tình cảm, sự tin tưởng và quyết tâm, đền đáp không phụ lòng đối với người khác giúp mình. Trường hợp nếu tổ chức đứng ra bảo lĩnh thì đó là một hoạt động thể hiện được tình cảm của cộng đồng, tập thể đã không bỏ rơi người có hành vi phạm tội nhưng thực tế là rất ít. ở cộng đồng dân cư, tổ chức xã hội chưa thể hiện được vai trò động viên, đồng cảm, thấu hiểu được nguyên nhân, điều kiện phạm tội của người chưa thành niên.

2.4.5.2.Những tồn tại trong việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh


- Những tồn tại trong quy định của pháp luật


Điều 92 BLTTHS quy định về bảo lĩnh nhưng chưa đầy đủ về điều kiện áp dụng. Do vậy khi áp dụng biện pháp dễ dẫn đến tùy tiện, có thể nảy sinh những tiêu cực, hoặc thiếu vô tư của điều tra viên.

Về điều kiện của người nhận bảo lĩnh phải được ghi nhận vào điều luật để làm căn cứ xét cho áp dụng biện pháp bảo lĩnh, nhưng vấn đề này chưa có tài liệu hướng dẫn chính thống. Dẫn đến tình trạng, huyện này hay huyện khác còn áp dụng vì sự cả nể, hoặc vì lý do khác... Mà theo qui định người nhận bảo lĩnh phải có ít


nhất là hai cá nhân có đủ năng lực, phẩm chất để quản lý, giáo dục được bị can là người chưa thành niên mới đảm bảo. Hơn nữa phải có trách nhiệm pháp lý để ràng buộc họ với hoạt động này tránh tùy tiện, thiếu trách nhiệm sau khi được bảo lĩnh. Về việc tổ chức đứng ra bảo lĩnh, phải làm rò trách nhiệm chính thuộc về ai trong tập thể đó đứng ra? Không thể áp dụng hình thức chia đều được, đây là vấn đề rất phức tạp, dựa vào uy tín của người đứng đầu trong tập thể thì họ ngại trách nhiệm cá nhân hoặc vì lý do khác mà từ chối...

Về trách nhiệm cá nhân, khi cá nhân vi phạm cam kết họ không quản lý, giám sát, giáo dục được bị can để bị can gây khó khăn cản trở cho hoạt động điều tra hoặc tiếp tục phạm tội thì cần phải có văn bản, hướng dẫn, thực thi....

- Những tồn tại trong thực tế áp dụng:


Việc áp dụng biện pháp này tạo ra mối quan hệ giữa 3 thành phần, sự giám sát điều chỉnh mối quan hệ này rất khó khăn, bên cạnh đó cộng đồng dân cư, hoặc cá nhân hay tổ chức đứng ra bảo lĩnh chưa thực sự hiểu được quy định của pháp luật về người chưa thành niên, đặc điểm tâm, sinh lý của người chưa thành niên. Thực tế đã có trường hợp lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức vì mục đích cá nhân trong việc này.

Một thực tế khác là khi người nhận bảo lĩnh, vi phạm nghĩa vụ cam kết để bị can bỏ trốn chẳng hạn, vậy kinh phí cho việc truy bắt bị can ấy lại đặt vào vai trò chủ chi của nhà nước? Do vậy, có thể buộc họ phải kết hợp việc nhận bảo lĩnh với việc đặt một số tiền để sung vào công quỹ khi họ vi phạm cam kết để bảo đảm chi phí việc truy bắt. Những vấn đề nêu trên đang trực tiếp ảnh hưởng đến kết quả việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự. Bảo lĩnh thể hiện kết quả tác động tổng hợp lên nhận thức của bị can song cũng là một vấn đề của xã hội xem xét, nó như là một sự nương tựa, "ô che", nếu bản thân bị can được người có quyền chức đứng ra bảo lĩnh hoặc là con, cháu những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội?


2.3.6. Tình hình áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm


Đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng buộc một người phải đưa ra lợi ích kinh tế hiện có của mình để gắn trách nhiệm với hoạt động tố tụng hình sự bảo đảm cho việc không gây khó khăn cản trở quá trình điều tra hoặc có thể bỏ trốn. Đây là một trong những biện pháp ngăn chặn mới có ở Việt Nam từ khi BLTTHS ra đời. Trải qua thực tiễn, biện pháp này mới chỉ áp dụng được một vài lần, do đặc điểm hoàn cảnh và điều kiện thực tế cũng như đối tượng bị áp dụng là người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam thì không phải bất cứ lúc nào, ở đâu người nước ngoài cũng đến và phạm tội, hơn nữa không phải tất cả các bị can là người nước ngoài đều bị áp dụng biện pháp này.

2.3.6.1. Thực trạng việc áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản để bảo

đảm


Việc áp dụng biện pháp này chỉ nhằm vào đối tượng là người nước ngoài

phạm tội ở trên lãnh thổ Việt Nam. Thông thường người nước ngoài, có phong cách sống, phong tục tập quán và ngôn ngữ khác với người trong nước, nên áp dụng biện pháp này sẽ đem lại sự mềm dẻo trong quan hệ đối ngoại. Nó tác động trực tiếp lên tâm lý, ý thức của những người nước ngoài đối với đường lối chính sách của nhà nước ta đối với họ.

Tại Điều 2 BLTTHS qui định:


Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam là công dân của nước thành viên của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết thì được tiến hành theo quy định của điều ước quốc tế đó.

Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các đặc quyền ngoại giao hoặc quyền ưu đãi, miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các hiệp định quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập hoặc


theo tập quán quốc tế, thì vụ án được giải quyết bằng con đường ngoại giao.

Thực tế hiện nay, trên địa bàn tỉnh Hà Tây cơ quan CSĐT chưa áp dụng biện pháp ngăn chặn này đối với người chưa thành niên là người nước ngoài phạm tội. Bởi số lượng người nước ngoài đến tham quan và làm việc ở địa bàn tỉnh là không nhiều, mang tính theo mùa vụ.

Ví dụ: Lễ hội chùa Hương ở Mỹ Đức, chơi gôn ở Đồng Mô-Sơn Tây... Những hoạt động này thường đi theo đoàn, có tổ chức nên không có tình trạng phạm tội xảy ra mà chỉ có những đối tượng ở địa phương gây ra cho họ. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự nên có những quy định chặt chẽ và hướng dẫn cụ thể để tránh sự lúng túng khi áp dụng nó.

2.3.6.2. Những tồn tại trong việc áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm

- Những tồn tại, vướng mắc về mặt pháp lý


Đây là chế định mới trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Điều luật chưa chỉ ra được một cách chính xác về điều kiện để áp dụng, đối với bị can phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, hoặc rất nghiêm trọng có thể áp dụng hay không, do đó cơ quan áp dụng biện pháp này rất vướng mắc khi vận dụng.

Quy định này, chỉ áp dụng cho người nước ngoài nên dù sao đi nữa cũng thể hiện sự không bình đẳng giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, lẽ ra là người nước ngoài khi vào một nước khác thì trước hết họ phải tôn trọng pháp luật của nước mà họ đến, luôn luôn giữ mình để tránh những hành vi phạm tội, sự tuân thủ chấp hành pháp luật sẽ làm cho họ vững tâm khi hoạt động, công tác ở nước sở tại.

Luật tố tụng hình sự quy định việc đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm như vậy rất khó xác định giá trị tài sản cần thiết, đồng thời sự biến đổi tỷ giá đồng tiền Việt Nam với các ngoại tệ thông dụng cũng rất phức tạp. Hơn nữa căn cứ để xác định quyền

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 26/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí