Áp dụng án treo từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh - 2

+ Luận án tiến sỹ luật học – Học viện khoa học xã hội: “Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn miền Trung và Tây Nguyên” của Nguyễn Văn Bường năm 2017.

- Các công trình khác:

+ Sách chuyên khảo “Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam” tác giả Lê Văn Luật của Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội năm 2007.

+ Sách chuyên khảo: “Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam” tác giả Hồ Sỹ Sơn của Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội năm 2009.

+ Sách: “Xã hội học pháp luật, những vấn đề cơ bản” tác giả Vò Khánh Vinh năm 2012 của Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội năm 2012.

Qua nghiên cứu các công trình có liên quan đến đề tài án treo nói trên cho thấy: có rất nhiều công trình khác nhau nghiên cứu về vấn đề này và đã đạt được các kết quả cơ bản như sau:

- So sánh chế định án treo của Việt Nam với một số quốc gia;

- Một số vướng mắc trong thực tiễn áp dụng án treo;

- Một số kiến nghị hoàn thiện chế định án treo và kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng án treo.

Những kết quả nói trên sẽ được tác giả kế thừa hợp lý trong quá trình hoàn thành công trình nghiên cứu của mình. Tuy nhiên nội dung của luận văn có cách tiếp cạnh, phân tích và nghiên cứu theo hướng khác so với các công trình nói trên, là luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự nói chung và án treo nói riêng trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Tác giả là người đã công tác nhiều năm trong ngành Toà án nên từ thực tiễn hoạt động xét xử sẽ phân tích làm rò những vấn đề bất cập trong việc áp dụng chế định án treo, từ đó đặt ra mục tiêu nghiên cứu làm rò những hạn chế, bất cập đó, tìm ra những nguyên nhân dẫn đến việc áp dụng không đúng chế định án treo trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Tây Ninh nói riêng, có tham chiếu một số vụ án hình sự trong toàn quốc, từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện quy định về án treo, đồng thời đưa ra những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định về án treo trong thực tiễn xét xử.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Áp dụng án treo từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh - 2

Thông qua việc làm rò những vấn đề lý luận về chế định án treo, phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh; chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những khó khăn, bất cập trong áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh, luận văn của tác giả có mục đích đề xuất các giải pháp cụ thể bảo đảm áp dụng đúng chế định án treo tại địa bàn tỉnh Tây Ninh.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt mục đích nghiên cứu đã đặt ra, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ sau đây:

- Nghiên cứu làm rò những vấn đề lý luận về án treo và áp dụng án treo.

- Phân tích các quy định của pháp luật hình sự, từ đó làm rò nội hàm của các khái niệm án treo và áp dụng án treo.

- Phân tích thực tiễn áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh, làm rò những khó khăn, bất cập và nguyên nhân của những khó khăn, bất cập đó.

- Đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng chế định án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về án treo, thực trạng các quy định của pháp luật hình sự về án treo, thực tiễn áp dụng chế định án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Luận văn cũng nghiên cứu các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng chế định án treo trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Để tài luận văn được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành khoa học luật hình sự và khoa học luật tố tụng hình sự.

- Về không gian: Khảo sát nghiên cứu những vấn đề về áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.

- Về thời gian: số liệu nghiên cứu từ năm 2016 đến hết năm 2020.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách pháp luật liên quan đến tội phạm và hình phạt, về chính sách nhân đạo của Đảng Nhà nước ta trong đó có chế định án treo cũng như quan điểm về đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp thống kê; phương pháp so sánh; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp nghiên cứu điển hình, phương pháp suy luận logic…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần bổ sung thêm những vấn đề lý luận về áp dụng án treo như: khái niệm, ý nghĩa, những trường hợp được hưởng án treo…, qua đó góp phần bổ sung thêm lý luận về áp dụng pháp luật hình sự nói chung.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có giá trị tham khảo đối với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự nói chung và chế định án treo nói riêng cũng như trong thực tiễn áp dụng án treo trên.

Kết quả nghiên cứu của luận văn còn có giá trị tham khảo đối với việc giảng dạy và học tập, nghiên cứu về chính sách hình sự, những quy định của pháp luật hình sự về án treo tại các cơ sở đào tạo CAND những cơ sở đào tạo luật ở nước ta.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn gồm: Chương 1. Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về án treo

Chương 2. Thực tiễn áp dụng chế định án treo tại các Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh

Chương 3. Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng chế định án treo

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ÁN TREO


1.1. Những vấn đề lý luận về án treo

1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa của án treo

1.1.1.1. Khái niệm

Ở nước ta, chế định án treo được quy định từ rất sớm, nó ra đời và gắn liền với sự ra đời của pháp luật hình sự Việt Nam. Ngày 13-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh số 33/C/SL, tại Điều IV (án tù có thể tuyên) quy định: “… Nếu có những lý do đáng khoan hồng vì ít tuổi, vì biết hối cải, vì lầm lẫn… thì Toà án có thể cho tội nhân được hưởng án treo. Nghĩa là bản án làm tội tuyên lên, nhưng không thi hành; nếu trong 5 năm bắt đầu từ ngày tuyên án, tội nhân không bị Toà án Quân sự làm tội một lần nữa về việc mới thì Bản án đã tuyên sẽ huỷ đi, coi như là không có; nếu trong hạn 5 năm ấy, tội nhân bị kết án một lần nữa trước Toà án Quân sự thì Bản án treo sẽ đem thi hành”.

Sắc lệnh số 21/SL ngày 14.2.1946 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà về “Tổ chức Toà án quân sự” đã quy định như sau: “Khi phạt tù, Toà án có thể cho tội nhân được hưởng án treo, nếu có những lý do đáng khoan hồng. Bản án xử treo sẽ tạm đình chỉ việc thi hành án. Nếu trong 5 năm bắt đầu từ ngày tuyên án, tội nhân không bị TA quân sự làm tội về một việc mới thì bản án đã tuyên sẽ huỷ đi, coi như không có. Nếu trong 5 năm ấy, tội nhân lại bị kết án một lần nữa trước một TA quân sự thì bản án treo sẽ được thi hành” [19, tr 24, 25].

Án treo là một chế định pháp lý hình sự thể hiện tính nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Với phương châm giáo dục kết hợp với khoan hồng, chế định án treo không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi cộng đồng, khỏi xã hội một khoảng thời gian nhất định mà tạo điều kiện cho họ được hòa nhập cùng cộng đồng, những người này vẫn được làm ăn, sinh sống, hối cải và hoàn lương của mình ở môi trường xã hội bình thường dưới sự giám sát, theo dòi, giáo dục của gia đình, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền [11, tr 8].

Theo quy định tại Điều 65, BLHS năm 2015, sửa đổi năm 2017 (gọi tắt là BLHS năm 2015) quy định khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần thiết bắt phải chấp hành hình phạt tù, thì TA cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Những căn cứ áp dụng án treo đối với người bị phạt tù là những yêu cầu, đòi hỏi do pháp luật hình sự bắt buộc quy định đối với người đó mà chỉ khi nào có đầy đủ những căn cứ thì TA mới được áp dụng án treo đối với họ.

Để áp dụng thống nhất chế định án treo, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã ban hành Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo. Theo đó, ngoài điều kiện người phạm tội bị xử phạt tù không quá 03 năm thì người được hưởng án treo phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Nhiều tình tiết giảm nhẹ được hướng dẫn là phải có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng, trong đó có ít nhất là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015 [30, tr 33- 35]. Trường hợp người phạm tội vừa có tình tiết giảm nhẹ vừa có tình tiết tăng nặng thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ 02 tình tiết trở lên trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015 [30, tr 33 – 35]. Người phạm tội phải có nhân thân tốt, có nơi cú trú rò ràng để các cơ quan có thẩm quyền giám sát, giáo dục thì mới có thể được xem xét để áp dụng án treo [14, tr 1].

Tóm lại, theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện… án treo thể hiện tính chất nhân đạo của luật hình sự Việt Nam, có tác dụng khuyến khích người bị kết án tự cải tạo, tự tu dưỡng và lao động tại cộng đồng xã hội với sự giúp đỡ tích cực của cộng đồng xã hội cũng như gia đình đồng thời cảnh báo họ nếu phạm tội mới trong thời gian thử thách thì buộc phải chấp hành hình phạt tù đã tuyên”. Từ các quan điểm trên về án treo và nội dung về án treo quy định tại khoản 1 Điều 65 BLHS 2015, có thể đưa ra định nghĩa về án treo như sau:

Án treo là một chế định pháp lý đặc biệt, được gọi là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, do HĐXX quyết định trên cơ sở căn cứ vào mức hình phạt tù đã tuyên đối với người phạm tội không quá ba năm, căn cứ vào nhân

thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ thì HĐXX cho người đó được hưởng án treo, không buộc phải chấp hành hình phạt tại trại giam đồng thời ấn định thời gian thử thách từ một đến năm năm.

1.1.1.2. Ý nghĩa của án treo

Trong hệ thống pháp luật của Nhà nước CHXHCN Việt Nam có nhiều chế định đặc thù thể hiện tính nhân đạo nhằm giáo dục, cải tạo những người trót lầm lỡ mà nhất thời phạm tội nhưng không tách họ khỏi đời sống cộng đồng như: phạt tiền, cải tạo không giam giữ, án treo… Ở Việt Nam, chế định án treo có ý nghĩa sau:

Thứ nhất: Án treo có ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Sự ra đời và phát triển của pháp luật nước ta qua các thời kỳ đều thể hiện tính nhân đạo. Ðiều đó còn thể hiện được truyền thống nhân văn của dân tộc ta. Tiếp thu và phát triển truyền thống quý báu đó, Nhà nước ta hiện nay đang xây dựng hệ thống pháp luật thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Một trong những đạo luật thể hiện rò điều đó là Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tính nhân đạo trong pháp luật hình sự thể hiện ở việc áp dụng chế tài hình sự đối với người phạm tội với mục đích chủ yếu nhằm: cải tạo, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội và giúp cho công tác phòng ngừa tội phạm trong xã hội nói chung. Mặt khác, khi xem xét dưới góc độ là tội phạm, pháp luật cũng xét đến tổng thể các khía cạnh khác như: độ tuổi, tình trạng sức khỏe, tình trạng bản thân khi phạm tội như mang thai, hoàn cảnh gia đình đang gặp khó khăn đặc biệt để xác định mức hình phạt phù hợp nhất. Bộ luật hình sự (BLHS) 2015 được sửa đổi, bổ sung 2017 đã có nhiều quy định tạo điều kiện cho người phạm tội tự cải tạo, có cơ hội để sớm hòa nhập vào cộng đồng thể hiện được tính nhân đạo như: nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, đối với người già, yếu, phụ nữ có thai hoặc nuôi con nhỏ, quy định về tha tù trước thời hạn có điều kiện hay quy định về án treo. Trong suốt quá trình lập pháp luôn có những sửa đổi, bổ sung để những quy định về án treo ngày càng phù hợp hơn, chặt chẽ hơn nhằm phát huy tối đa tính nhân đạo, tính tích cực của chế định này.

Thứ hai: Án treo mang tính chính trị. Bản chất của Nhà nước ta "là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân" [Điều 2 Hiến pháp năm 2013]. Nhà nước luôn "công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước

mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện".[Điều 3 Hiến pháp năm 2013] Xuất phát từ bản chất đó, nên ngay cả khi trừng phạt người phạm tội bằng các chế tài hình sự, trong đó có án treo, Đảng, Nhà nước ta vẫn ưu tiên hướng cải tạo, giáo dục người phạm tội bằng biện pháp không tước tự do trên cơ sở phù hợp với tính chất và mức độ phạm tội của họ. Chế định án treo không chỉ có tác dụng cải tạo, giáo dục người phạm tội mà còn là cơ sở để người phạm tội tự cải tạo để trở thành người lương thiện mà không cần buộc người phạm tội phải chấp hành hình phạt trong trại giam. Án treo thể hiện tính nhân đạo XHCN trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Áp dụng án treo đúng có tác dụng là không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi đời sống xã hội mà vẫn đạt được mục đích giáo dục, cải tạo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội. Án treo còn có tác dụng khuyến khích người bị kết án tự lao động cải tạo để hoàn lương ngay trong môi trường sống của họ, nơi cơ quan công tác hoặc nơi người bị kết án cư trú, học tập, làm ăn và sinh sống với sự giúp đỡ tích cực của chính quyền địa phương nơi cư trú hoặc cơ quan công tác, gia đình, người thân, bạn bè và cộng đồng xã hội. Điều này sẽ có ảnh hưởng tích cực đến cuộc đời của họ cũng như gia đình và xã hội nơi họ sinh sống và làm việc. Việc quy định chế định án treo trong Luật hình sự Việt Nam phù hợp bản chất tốt đẹp của Nhà nước Việt Nam và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Thứ ba: Án treo có ý nghĩa xã hội: Việc tuyên hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo nhằm tạo điều kiện cho người được hưởng án treo học tập, làm ăn, sinh sống và chứng tỏ sự tự hối cải, hoàn lương của người bị kết án trong môi trường sống của bản thân hàng ngày dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc uỷ ban nhân dân thị trấn, xã, phường nơi người được hưởng án treo công tác, làm việc, học tập hoặc cư trú. Người được hưởng án treo phải chịu thử thách dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục và gia đình của người đó [ 20, tr 23 ]. Do đó, phát huy được vai trò của các cơ quan có thẩm quyền, vai trò của gia đình và nhân dân tham gia trong việc giúp đỡ, giám sát, giáo dục người được hưởng án treo trong thời gian thử thách, không kỳ thị, phân biệt, xa lánh người phạm tội mà tìm cách gần gũi giúp đỡ họ để họ có điều kiện lao động cải tạo tại địa phương hoàn lương và sớm hoà nhập với cộng đồng. Án treo vừa bảo

đảm tính trừng trị vừa đề cao tính tự giáo dục, cải tạo để sớm trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Thứ tư: Ý nghĩa về mặt kinh tế: Việc HĐXX cho người phạm tội được hưởng án treo sẽ có lợi ích đáng kể về kinh tế. Đó là Nhà nước ta sẽ tiết kiệm được một khoản chi phí tương đối lớn trong việc tổ chức cho người bị kết án chấp hành hình phạt tù nếu không cho họ hưởng án treo, chịu sự giám sát, giáo dục tại địa phương nơi cư trú. Đó là các khoản chi phí cho việc tổ chức cho họ chấp hành hình phạt trong các trại giam như di chuyển, ăn uống, sinh hoạt, khám chữa bệnh, chi phí cho đội ngũ cán bộ quản giáo, sửa chữa cơ sở vật chất, trang thiết bị… Ngoài ra, người được hưởng án treo và cuộc sống của gia đình họ ít bị xáo trộn vì người phạm tội không bị cách ly khỏi đời sống xã hội, cách ly khỏi gia đình nên họ sẽ có cơ hội lao động cải tạo, làm việc để tạo ra của cải vật chất cho bản thân, gia đình và xã hội.

Thứ năm: Án treo mang tính chất răn đe, giáo dục đối với những người xung quanh. Bên cạnh việc trừng trị người phạm tội thì án treo còn có tác dụng giáo dục, răn đe những người xung quanh khác, nơi người được hưởng án treo làm việc hoặc cư trú về bài học cảnh tỉnh, nhắc nhở và cảnh giác đối với những người xung quanh để họ lấy đó làm bài học cố gắng kìm chế những bản năng xấu trong con người họ khi có ý định, điều kiện phạm tội đến với họ. Chính vì vậy ý thức tuân thủ pháp luật trong cuộc sống hàng ngày của họ được nâng lên [20, tr 24- 25].

Tóm lại, án treo là chế định pháp lý hình sự có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó vừa thể hiện chính sách khoan hồng và nhân đạo của Nhà nước ta, đồng thời là một chế định không thể thiếu trong chính sách hình sự của Nhà nước, nó vừa mang tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, vừa hiện thực vì đem lại những hiệu quả về mặt kinh tế

- xã hội trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội của đất nước, đảm bảo được sự ổn định của đời sống chính trị, văn hoá, kinh tế - xã hội.

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của áp dụng án treo

1.1.2.1. Khái niệm áp dụng án treo

Trước khi tìm hiểu khái niệm áp dụng án treo chúng ta cần hiểu thế nào là áp dụng pháp luật. Đây là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt trong đó Nhà nước thông qua các thiết chế cụ thể của Nhà nước mình tổ chức cho các chủ thể khác trong xã hội thực hiện những quy định bắt buộc của pháp luật. Sự đặc biệt thể

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/06/2022