Khái Quát Tình Hình Áp Dụng Án Treo Trên Địa Bàn Tỉnh Bình Phước

Chương 2

THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH ÁN TREO TẠI CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC

2.1. Khái quát tình hình áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước

Bình Phước là một tỉnh biên giới thuộc vùng Đông Nam Bộ, là tỉnh biên giới có vị trí đặc biệt quan trọng của vùng với diện tích tự nhiên là 6871,5 km2, với dân số khoảng 921.411 người, mật độ dân số bình quân khoảng 135 người/km2, phía Nam giáp tỉnh Bình Dương, phía Bắc giáp tỉnh Đắk Nông và Campuchia, phía Đông giáp tỉnh Lâm Đồng và Đồng Nai, phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và Campuchia. Tỉnh Bình Phước bao gồm 8 huyện và 3 thị xã, cụ thể: Các huyện Đồng Phú, Phú Riềng, Bù Đốp, Bù Gia Mập, Bù Đăng, Chơn Thành, Hớn Quản, Lộc Ninh và có 3 thị xã là Đồng Xoài, Bình Long, Phước Long.

Những năm vừa qua, Bình Phước có tốc độ tăng trưởng kinh tế có sự phát triển ở mức khá cao so với bình quân của khu vực và cả nước, bình quân gần 10%/năm, tình hình kinh tế và chính trị đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong toàn tỉnh không ngừng được nâng cao. Bên cạnh những thành tựu đạt được thì Bình Phước cũng còn nhiều vấn đề về kinh tế - xã hội còn tồn tại như: Chênh lệch giàu nghèo tăng, tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp...

Tính trung bình từ năm 2016 đến năm 2020 Tòa án hai cấp của tỉnh Bình Phước xét xử: 5352 vụ với 9660 bị cáo trung bình 1070,4 vụ với 1932 bị cáo 1 năm, cụ thể: Năm 2016 Tòa án nhân dân hai cấp của tỉnh Bình Phước xét xử 1064 vụ với 1915 bị cáo. Năm 2017 xét xử 940 vụ với 1678 bị cáo (giảm 124 vụ và giảm 237 bị cáo so với năm 2016). Năm 2018 xét xử 862 vụ với 1600 bị cáo (giảm 78 vụ và 78 bị cáo so với năm 2017). Năm 2019 xét xử 1212 vụ với 2111 bị cáo (tăng 350 vụ và 511 bị cáo so với năm 2018). Năm

2020 xét xử 1274 vụ với 2356 bị cáo (tăng 62 vụ và 245 bị cáo so với năm 2019).[Bảng 2.2. Phần phụ lục].

Theo đánh giá của cơ quan chức năng, trong thời gian tới, các loại tội phạm: Buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển hàng hóa trái phép qua biên giới, tệ nạn mại dâm, cờ bạc, ma túy, tình hình tội phạm băng, nhóm có tổ chức, nhất là các băng, nhóm tội phạm bảo kê, đòi nợ thuê, cho vay nặng lãi... diễn biến ngày càng phức tạp hơn và có chiều hướng ngày càng gia tăng cả về tính chất và mức độ phạm tội. Vì vậy, các cấp chính quyền cần có giải pháp cụ thể để phòng ngừa và ngăn chặn có hiệu quả các loại tội phạm trên.

Thực tế hiện nay khi so sánh việc cho hưởng án treo của Việt Nam với các nước khác trên thế giới thì tỷ lệ cho hưởng án treo của Việt Nam còn thấp hơn nhiều. Nếu như vào năm 2008 tỉ lệ các bị cáo được hưởng án treo chiếm khoảng 28% người bị kết án (tỷ lệ chung của cả nước theo nghiên cứu của PGS.TS Trần Văn Độ). Mặc dù vậy, thông qua kết quả xét xử phúc thẩm của Tòa án cũng cho thấy số bản án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm sửa từ phạt tù giam chuyển sang phạt tù nhưng cho hưởng án treo thường cao gấp 3-4 lần số bản án sơ thẩm bị sửa từ phạt tù cho hưởng án treo sang phạt tù giam. Từ đó cho thấy trong nhiều vụ án đáng lẽ bị cáo có thể được hưởng án treo nhưng Tòa án quyết định cho họ được hưởng án treo. Ở các nước khác trên thế giới, theo nghiên cứu thì tỉ lệ người phạm tội bị kết án phạt tù chỉ chiếm 50%-60% số người phạm tội, còn ở Việt Nam khoảng 80 – 83%, cho thấy tỷ lệ người phạm tội bị kết án phạt tù ở Việt Nam còn khá cao.

Cũng theo số liệu thống kê, tổng hợp của TANDTC thì:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.

Năm 2015: có 21.450 bị cáo được hưởng án treo/106.078 bị cáo; chiếm tỷ lệ 20,2%.

– Năm 2016: có 18.443 bị cáo được hưởng án treo/103.985 bị cáo; chiếm tỷ lệ 17,7%.

Áp dụng án treo từ thực tiễn tỉnh Bình Phước - 6

Năm 2017: có 17.644 bị cáo được hưởng án treo/94.423 bị cáo; chiếm tỷ lệ 18,7% [37]

- Năm 2018: có 21.234 bị cáo được hưởng án treo/92.146 bị cáo; chiếm tỷ lệ 23%.

- Năm 2019: có 21.862 bị cáo được hưởng án treo/93.320 bị cáo; chiếm tỷ lệ 23,4%.

[Bảng 2.1, phần phụ lục]

Qua bảng số liệu thống kê thực tế cho thấy số người phạm tội được hưởng án treo ở Bình Phước trong 5 năm qua là 1121 vụ với 1403 bị cáo, trung bình 224,2 vụ với 280,6 bị cáo/năm chiếm tỷ lệ (1403/9660 bị cáo) khoảng 14,5 % 1 năm so với số người bị kết án được hưởng án treo của cả nước năm 2016 là 17,7 %; tỷ lệ này năm 2017 là 13,5 %, năm 2018 là 10,6;

năm 2019 là 22,4%; năm 2020 là 19,1%. Cụ thể như sau: năm 2016 xảy ra 198 vụ với 258 bị cáo được hưởng án treo; năm 2017 xảy ra 111 vụ với 170 bị cáo được hưởng án treo; năm 2018 xảy ra 125 vụ với 172 bị cáo được hưởng án treo; năm 2019 xảy ra 289 vụ với 353 bị cáo được hưởng án treo; năm 2020 xảy ra 398 vụ với 448 bị cáo được hưởng án treo. Tỷ lệ người được hưởng án treo từ năm 2016 đến năm 2020 chiếm khoảng 14,5 %. Tình hình người phạm tội được hưởng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước thời gian qua cho thấy: tỷ lệ người bị kết án được hưởng án treo so với các hình phạt khác của Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước có thể thấy số lượng người bị kết án được hưởng án treo so với các hình phạt khác chiếm một tỷ lệ tương đối và đang có xu hướng tăng dần trong các năm 2019 và 2020. Đây là một kết quả đáng khích lệ, thấy được vai trò và tầm quan trọng của áp dụng án treo trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự… Qua công tác thi hành án, theo dòi, giám sát, giáo dục các đối tượng chấp hành án treo tại địa phương nơi cư trú, làm việc của họ thì thấy rằng phần lớn các đối tượng này cải tạo tốt tại địa phương, khoảng hơn 90% số người bị kết án được hưởng án treo không phạm

tội mới trong thời gian thử thách. Đây có thể coi là hiệu quả của việc áp dụng chế định án treo trong hoạt động xét xử của ngành toà án nói chung và ngành Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước nói riêng.

2.2. Thực trạng áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2016 – 2020

2.2.1. Thực trạng áp dụng đúng án treo của các Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2016 – 2020

Thời gian qua, thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước được thể chế hóa trong các văn bản pháp luật, chỉ thị của ngành. Toà án nhân dân hai cấp tỉnh Bình Phước đã áp dụng những quy định của pháp luật về án treo một cách thống nhất, áp dụng đúng các quy định của pháp luật về các điều kiện áp dụng án treo, những quy định của pháp luật hình sự liên quan đến án treo để các bị cáo bị đưa ra xét xử được hưởng án treo một cách chính xác, đúng quy định với một tỷ lệ tương đối ổn định qua các năm. Để có được kết quả đó, các Thẩm phán được phân công làm xét xử các vụ án hình sự đã không ngừng học hỏi nâng cao trình độ vànêu cao tinh thần trách nhiệm với công việc, từ giai đoạn chuẩn bị xét xử tiến hành nghiên cứu hồ sơ một cách nghiêm túc, toàn diện, đánh giá tính chất vụ án hình sự một cách khách quan, xem xét hành vi khách quan, nhân thân người phạm tội, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo dưới nhiều góc độ từ đó tránh được những sai lầm trong việc áp dụng pháp luật hình sự trong việc quyết định hình phạt, quyết định cho bị cáo được hưởng án treo một cách chính xác.

Trong thời gian vừa qua, công tác xét xử các VAHS đã được Tòa án nhân dân hai cấp tại tỉnh Bình Phước đã làm tốt, về cơ bản là áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự đối với các loại tội phạm, khung hình phạt và các hình phạt được Tòa án tuyên tương xứng với hành vi phạm tội. Chất lượng xét xử các VAHS của Tòa án cấp huyện và cấp tỉnh ngày càng được nâng cao, đảm bảo các tiêu chí, quy định xét xử; phần lớn các

vụ án được đưa ra xét xử kịp thời, đúng hạn luật định; các bản án, quyết định của Tòa án được về cơ bản được những người tham gia tố tụng và các cơ quan hữu quan đồng tình, ủng hộ; tỷ lệ các bản án bị hủy, bị sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán hàng năm đều giảm… Qua nghiên cứu tình hình thực tế về công tác xét xử các VAHS của Tòa án nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Bình Phước, hiệu quả của việc áp dụng chế định án treo đúng được thể hiện ở các phương diện sau:

Mức hình phạt tù là căn cứ đầu tiên để Tòa án hai cấp trên địa bàn tỉnh Bình Phước xem xét cho người bị kết án tù có được hưởng án treo hay không. Pháp luật hình sự nước ta quy định: Người bị áp dụng hình phạt tù không quá 03 năm, không phân biệt phạm tội gì thì có thể được Tòa án xem xét cho hưởng án treo; trường hợp người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp hình phạt mức hình phạt của họ không quá 03 năm tù thì cũng có thể được hưởng án treo. Hội đồng xét xử các vụ án hình sự khi nhân danh nhà nước tuyên mức hình phạt tù đối với người phạm tội thì đều phải dựa trên tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, trên cơ sở tuân thủ những căn cứ để quyết định hình phạt, đồng thời phải tuân theo những nguyên tắc cụ thể của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam để áp dụng hình phạt cho từng trường hợp cụ thể, tránh những trường hợp vì có ý định từ trước là sẽ cho người bị kết án hưởng án treo nên Hội đồng xét xử đã tuyên mức án thấp hơn thời hạn 03 năm tù giam để cho người phạm tội được hưởng án treo, hoặc đáng lẽ bị cáo được hưởng án treo nhưng Hội đồng xét xử có ý định từ trước là không cho hưởng án treo nên Hội đồng xét xử quyết định tuyên mức án cao hơn 03 năm từ và không cho bị cáo được hưởng án treo. Qua số liệu báo cáo của Tòa án tỉnh Bình Phước cho thấy 100 % số bị cáo được cho hưởng án treo đều có mức hình phạt dưới 03 năm tù, tức là mức hình phạt tù cho hưởng án treo đối với bị cáo đều có mức hình phạt dưới 03 năm tù.

Để xem xét cho hưởng án treo, thực tiễn áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước cho thấy phần lớn các vụ án khi quyết định cho hưởng án treo Hội đồng xét xử đã áp dụng đúng quy định về điều kiện được hưởng án treo như điều kiện về nhân thân người phạm tội như như hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Đại đa số người phạm tội được xét cho hưởng án treo đều là những người chưa có tiền án, tiền sự, chấp hành đúng chính sách, pháp luật, có nhân thân tương đối tốt.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 65 BLHS thì người phạm tội để được hưởng án treo phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS. Nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS được giải thích là phải từ 02 tình tiết giảm nhẹ TNHS trở lên và không có tình tiết tăng nặng TNHS, trong đó có ít nhất là một tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS. Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ TNHS vừa có tình tiết tăng nặng TNHS, thì tình tiết giảm nhẹ TNHS phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng TNHS từ 02 tình tiết trở lên trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS. Các trường hợp được Tòa án hai cấp của Bình Phước cho hưởng án treo đa số đều đáp ứng được các tiêu chí trên, tức là có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS.

Tóm lại, có thể nói rằng việc áp dụng án treo trong thực tiễn đã được Tòa án hai cấp của tỉnh Bình Phước thực hiện tương tối tốt mang lại hiệu quả cao đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, đạt được mục đích của hình phạt là vừa trừng trị, vừa giáo dục cải tạo người phạm tội.

Điển hình như vụ án: Nguyễn Thị Thu sinh năm 1944 tại Bình Phước phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Do mâu thuẫn cá nhân nên vào khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 22/3/2019 tại chợ xã Long Bình thuộc thôn 1, xã Long Bình, huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước, bị cáo Nguyễn Thị Thu và người bị hại Mai Thị Xuân đã xảy ra xô xát đánh nhau. Bị cáo đã sử dụng 01 con dao

nhọn dài 32cm đâm vào tay trái và tay phải của bà Mai Thị Xuân gây tổn thương cơ thể 07% sức khỏe. Bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội đã 75 tuổi, là người già; tại phiên tòa mặc dù bị cáo có trình bày những lời khai mâu thuẫn với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra nhưng sau đó thừa nhận nội dung diễn biến sự việc như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra là đúng, sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; đã bồi thường khắc phục một phần hậu quả cho bị hại số tiền 5.000.000 đồng; bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu; bị cáo là người già yếu, sức khỏe kém, hiện đang phải điều trị bệnh cao huyết áp và bệnh tắc ống mật; bị cáo từng tham gia kháng chiến chống Mỹ. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, o, s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử đã quyết định: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 tháng kể từ ngày tuyên án.Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Long Bình, huyện Phú Riềng nơi bị cáo cư trú để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.Có thể nói bản án được Hội đồng xét xử tuyên đã áp dụng đúng quy định của pháp luật về án treo như: quy định về mức hình phạt tù là 9 tháng; về nhân thân người phạm tội: có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, từng tham gia kháng chiến chống Mỹ… Ngoài ra, bị cáo đã khắc phục hậu quả là bồi thường 5.000.000 đồng cho bị hại. Chính vì vậy không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, mà chỉ cần tuyên hình phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo, giao bị cáo về chính quyền địa phương nơi cư trú quản lý, tạo điều kiện cho bị cáo tự giáo dục bản thân trở thành công dân tốt cho xã hội là phù hợp.

2.2.2. Thực trạng áp dụng chưa đúng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2016 – 2020

Trong thời gian qua, việc áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước bên cạnh những quyết định chính xác vẫn còn một số trường hợp còn tồn tại, hạn chế nhất định, như việc đánh giá về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, dẫn đến Hội đồng xét xử quyết định hình phạt đối với người phạm tội được hưởng án treo chưa được chính xác. Trên địa bàn tỉnh Bình Phước việc áp dụng án treo chưa chính xác chủ yếu do sự đánh giá khách quan của HĐXX còn hạn chế như: đánh giá nhân thân người phạm tội chưa chính xác, đánh giá tình tiết giảm nhẹ chưa chính xác… Nhiều vụ án HĐXX sơ thẩm quyết định hình phạt tù đối với các bị cáo nhưng sau đó HĐXX cấp phúc thẩm lại cho bị cáo được hưởng án treo. Số vụ án mà bị cáo được HĐXX phúc thẩm cho hưởng án treo ngày càng có xu hướng gia tăng. Thể hiện qua số liệu sau:

Tỷ lệ các vụ án áp dụng án treo chưa đúng thể hiện số bị cáo bị chuyển từ cho hưởng án treo sang hình phạt tù trong giải quyết các vụ án hình sự phúc thẩm tại Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước từ năm 2016 đến hết năm 2020. Từ bảng số liệu 2.5 có thể thấy số lượng bị cáo bị TA cấp phúc thẩm sửa án chuyển từ cho hưởng án treo sang hình phạt tù trong giải quyết các vụ án hình sự phúc thẩm tại tỉnh Bình Phước chiếm tỷ lệ tương đối thấp. Cụ thể: Năm 2016 có 258 bị cáo được Toà án cấp sơ thẩm xét xử cho hưởng án treo, trong đó có 04 bị cáo bị Toà án phúc thẩm xét xử chuyển từ cho hưởng án treo sang hình phạt tù, chiếm tỷ lệ 1,4%; Năm 2017 có 170 bị cáo được Toà án cấp sơ thẩm xét xử cho hưởng án treo, trong đó có 03 bị cáo bị Toà án phúc thẩm xét xử chuyển từ cho hưởng án treo sang hình phạt tù, chiếm tỷ lệ 1,7%; Năm 2018 có 172 bị cáo được Toà án cấp sơ thẩm xét xử cho hưởng án treo, trong đó có 02 bị cáo bị Toà án phúc thẩm xét xử chuyển từ cho hưởng

Xem tất cả 102 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí