mức hình phạt tù đối với người phạm tội được hưởng án treo về thực chất là căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ TNHS (đây là các căn cứ để quyết định hình phạt đối với người phạm tội). Theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành thì chỉ những người bị phạt tù không quá ba năm mới có thể được Hội đồng xét xử xem xét có cho hưởng án treo hay không? Quy định căn cứ này là quy định về giới hạn phạm vi áp dụng biện pháp án treo. Luật không quy định về loại tội cho nên nói chung người bị phạt tù không quá ba năm về bất cứ tội phạm gì đều có thể được xem xét việc cho hưởng án treo nếu có đủ căn cứ khác. Tức là, đối với tất cả các loại tội phạm mức phạt tù mà Tòa án áp dụng cho người phạm tội nằm trong giới hạn không quá 3 năm. Đây là điều kiện có tính tiên quyết làm cơ sở để xem xét các điều kiện khác. Khi mà người phạm tội không thỏa mãn điều kiện này thì Tòa án không cần phải đánh giá các điều kiện tiếp để cân nhắc xem xét việc cho hưởng án treo.
Bên cạnh đó, nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP đã bổ sung 06 trường hợp không được hưởng án treo, thể hiện được tính nghiêm minh của pháp luật và sự khoan hồng của chính sách pháp luật hình sự đối với tội phạm và người phạm tội; nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng…[15]
Ngoài ra, điều luật chỉ quy định mức hình phạt tối đa để được hưởng án treo mà không quy định mức tối thiểu. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 38 BLHS thì mức hình phạt thấp nhất để được hưởng án treo đó là 03 tháng tù.
Nhưng theo tác giả, nên quy định: người phạm tội được hưởng án treo đối với những trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc cũng có thể là tội phạm nghiêm trọng nhưng thuộc trường hợp ít nghiêm trọng mà có mức hình phạt tù không quá ba năm. Đối với người phạm tội bị xét xử tại phiên tòa trong một lần về nhiều tội hoặc có nhiều bản án mà khi tổng hợp hình phạt,
hình phạt chung không quá ba năm tù, thì cũng có thể cho hưởng án treo, nhưng Hội đồng xét xử phải xem xét thật chặt chẽ. Khi quyết định mức hình phạt tù cần tránh những sai lầm sau đây: a) Vì Hội đồng xét xử có ý định trước là sẽ cho người bị kết án hưởng án treo, nên đúng theo quy định phải phạt họ hình phạt trên ba năm tù nhưng lại quyết định chỉ phạt họ từ ba năm tù trở xuống để cho họ đủ điều kiện hưởng án treo. b) Vì Hội đồng xét xử có ý định trước là sẽ không cho người bị kết án hưởng án treo, nên đúng theo quy định chỉ cần phạt tù họ với án phạt thấp, thì lại quyết định mức phạt tù đối với họ là cao và không cho họ đủ điều kiện hưởng án treo.
Hai là: Về nhân thân người phạm tội
Người được hưởng án treo chắc chắn phải là người có nhân thân tốt. Đặc điểm nhân thân của người phạm tội là căn cứ quan trọng để Tòa án quyết định hình phạt và cũng là căn cứ cần thiết để Tòa án xem xét người phạm tội có khả năng tự giáo dục, cải tạo hay không để quyết định cho người phạm tội hưởng án treo hay không? Người phạm tội được coi là có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội đang bị xét xử cho hưởng án treo, họ luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc. Đối với người phạm tội đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích hay người phạm tội bị Tòa án kết án nhưng đã được xóa án tích, người phạm tội đã bị cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính tính đến ngày phạm tội hiện tại đã quá thời hạn là 06 tháng, nếu Hội đồng xét xử xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới do người phạm tội thực hiện thuộc vào trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm nhưng là người đồng phạm có vai trò không mấy đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác theo quy định thì Hội đồng xét xử cũng có thể xem xét cho hưởng án treo nhưng phải thật thận trọng
Bên cạnh việc phải có nhân thân tốt thì để được hưởng án treo người bị kết án không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 3 của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP. Quy định này đã thể hiện rất quyết đoán nguyên tắc nghiêm trị trong pháp luật hình sự Việt Nam. [15]
Khi xét đến điều kiện nhân thân của người phạm tội TA cần xét toàn diện tất cả các yếu tố thuộc về nhân thân. Bên cạnh đó cần đồng thời kết hợp với thái độ của người phạm tội sau khi có hành vi phạm tội cùng với yêu cầu phòng ngừa tội phạm chung tại địa phương để từ đó đánh giá, xem xét có cần phải bắt họ chấp hành hình phạt tù giam hay không. Những người phạm tội có nhân thân tốt thuộc trường hợp phạm tội lần đầu ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội có thái độ ăn năn hối lỗi và thành khẩn khai báo, thành khẩn nhận tội thì có nhiều khả năng tự cải tạo hơn các đối tượng khác, nên cần được Hội đồng xét xử xem xét để cho hưởng án treo.
Ba là: Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Có thể bạn quan tâm!
- Áp dụng án treo từ thực tiễn tỉnh Bình Phước - 1
- Áp dụng án treo từ thực tiễn tỉnh Bình Phước - 2
- Khái Niệm, Đặc Điểm Áp Dụng Án Treo
- So Sánh Án Treo Với Hình Phạt Cải Tạo Không Giam Giữ
- Khái Quát Tình Hình Áp Dụng Án Treo Trên Địa Bàn Tỉnh Bình Phước
- Áp dụng án treo từ thực tiễn tỉnh Bình Phước - 7
Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.
Người được hưởng án treo phải có từ 02 tình tiết giảm nhẹ TNHS trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS hiện hành và không có tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại khoản 1 Điều 52. Trường hợp có tình tiết tăng nặng TNHS thì số tình tiết giảm nhẹ TNHS phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng TNHS từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật. Quy định tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP đã thể hiện được sự khoan hồng của chính sách hình sự đối với người phạm tội nếu có tình tiết tăng nặng thì số tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn từ 02 tình tiết và chỉ cần có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ TNHS theo khoản 1 Điều 51 BLHS hiện hành. Bởi vì trong một số trường hợp, người phạm tội chỉ có 01 tình tiết tăng nặng nhưng có rất nhiều tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS hiện hành và xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm là không đáng kể, họ vẫn có thể được hưởng án treo mặc dù có tình tiết tăng nặng TNHS [28, tr 34
– 35]. Quy định này vừa bảo đảm tính khoa học, vừa bảo đảm sự công bằng khi quyết định lượng hình của Tòa án.
Bốn là, về nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người phạm tội
Người phạm tội được Hội đồng xét xử quyết định cho hưởng án treo phải có nơi cư trú (thường trú hoặc tạm trú) rò ràng hoặc có nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo dòi, giám sát, giáo dục. Nơi cư trú rò ràng của người phạm tội chính là nơi người đó tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ chính xác được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được Hội đồng xét xử cho hưởng án treo. Nơi làm việc ổn định phải là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn ít nhất từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật về lao động hoặc theo quyết định tuyển dụng của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Bởi vì khi cho người bị kết án được hưởng án treo thì trong nội dung bản án buộc phải tuyên giao người được hưởng án treo đó cho cơ quan, tổ chức nào? Đó là nơi người đó làm việc hay là nơi người đó cư trú để theo dòi, giám sát, giáo dục.
Năm là, xét thấy không cần phải bắt buộc chấp hành hình phạt tù
Đây là căn cứ dựa hoàn toàn vào đánh giá chủ quan của Thẩm phán và Hội đồng xét xử. Khi xem xét cho người bị kết án được hưởng án treo, Hội đồng xét xử dựa vào các căn cứ như đã nêu trên để cân nhắc, đánh giá và quyết định về khả năng tự lao động cải tạo của người được hưởng án treo dưới sự theo dòi, giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức có được giao nhiệm vụ giám sát giáo dục cũng như gia đình, người thân, bạn bè người bị kết án và của cộng đồng xã hội nơi người đó sinh sống. Ngoài ra, Hội đồng xét xử phải xem xét thêm các yêu cầu của công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm của từng loại tội phạm cụ thể trong từng thời kỳ cụ thể tương ứng, xem có cần phải bắt người phạm tội chấp hành hình phạt tù hay không. Trường hợp người bị kết án đã hội đủ ba căn cứ nêu trên theo quy định của BLHS
nhưng do yêu cầu cụ thể của công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm của địa phương để răn đe kịp thời đối với loại tội phạm mà họ đã phạm, từ đó giáo dục, ngăn chặn loại tội phạm này tại địa phương ở thời điểm hiện tại, vì nhiệm vụ chính trị thì Hội đồng xét xử có thể không cho người bị kết án hưởng án treo mà bắt họ chấp hành hình phạt tù giam. Ngược lại, nếu Hội đồng xét xử xem xét thấy người bị kết án có nơi cư trú ổn định, là người thực sự có khả năng tự lao động cải tạo để hoàn lương ngay trong môi trường cộng đồng xã hội cụ thể, không có nguy cơ tái phạm tội bởi tính chất loại tội phạm mà họ thực hiện là loại tội phạm ít nghiêm trọng cũng như các ảnh hưởng xấu của các đối tượng xung quanh, môi trường xung quanh thì cho họ được hưởng án treo.
1.2.2. Quy định về thời gian thử thách của án treo
Thời gian thử thách là điều kiện bắt buộc của áp dụng chế định án treo. Đây cũng là khoảng thời gian đủ để người bị kết án tự chứng minh, tự khẳng định về sự tự giác cải tạo của bản thân mình. Mặt khác cũng giúp Tòa án có điều kiện kiểm tra tính đúng đắn của việc áp dụng án treo đối với người bị kết án trong thời gian chấp hành bản án.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 65 BLHS 2015 thì: “Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ TNHS, nếu xét thấy không cần thiết phải bắt họ chấp hành hình phạt tù, thì Hội đồng xét xử có thể cho người phạm tội hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với họ là từ một năm đến năm năm”. Do đó, khi quyết định cho người bị phạt tù được hưởng án treo, pháp luật hình sự quy định Hội đồng xét xử đồng thời phải ấn định một thời gian thử thách nhất định đối với họ từ một năm đến năm năm và ghi rò trong bản án. Ngoài ra, thời gian thử thách của án treo đối với người phạm tội được hưởng án treo là bắt buộc, không được cho hưởng án treo mà lại miễn thời gian thử thách, giữa thời gian thử thách và mức hình phạt tù có mối liên hệ rất mật thiết và tác
động qua lại với nhau nhưng vấn đề này lại chưa được Luật hình sự quy định cụ thể. Thời gian thử thách đối với họ nhất thiết phải không được dưới một năm và trên năm năm, cũng không được ít hơn mức hình phạt tù [28, tr 45].
Theo quy định tại Điều 65 BLHS thì người bị phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm, Tòa án có thể ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm mà không bị ràng buộc bởi tỷ lệ bao nhiêu tháng, bao nhiêu năm tù thì bị thử thách bao nhiêu năm, mà có thể người phạm tội chỉ bị xử phạt 03 tháng tù nhưng có thể bị thử thách 05 năm và ngược lại. Nhằm khắc phục hạn chế nêu trên, theo hướng dẫn tại Điều 4 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn “Khi cho người phạm tội hưởng án treo, Tòa án phải ấn định thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù, nhưng không được dưới 01 năm và không được quá 05 năm”, đây là quy định được kế thừa từ Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐT ngày 06/11/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Mặt khác, có ý kiến cho rằng, một người bị phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 02 năm, họ đã thử thách được 01 năm, tức là họ đã chấp hành xong hình phạt tù của án treo.
Áp dụng chế định án treo chỉ có ý nghĩa pháp lý và ý nghĩa thực tiễn khi Hội đồng xét xử tuyên thời gian thử thách hợp lý. Đó là khoảng thời gian nhất định đủ để thử thách đối với người bị án treo để bản thân họ có thể tự lao động cải tạo để hoàn lương, nếu trong thời gian này họ không phạm tội mới và chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật thì có thể tin tưởng rằng họ là con người không còn nguy hiểm cho xã hội, ít có nguy cơ tái phạm tội. Thời gian thử thách của người được hưởng án treo được ấn định tuỳ thuộc chủ yếu vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của họ thể hiện ở mức hình phạt tù mà họ phải chịu cũng như phụ thuộc vào sự đánh giá của HĐXX về khả năng bản thân tự giáo dục, cải tạo của người phạm tội. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ, như chấp hành đúng, đầy đủ tất cả những
quy định, những chủ trương chính sách, pháp luật của Nhà nước, không có biểu hiện vi phạm pháp luật, trong quá trình học tập, quá trình người đó lao động sản xuất hoặc trong quá trình công tác đã có những cố gắng tích cực, lập công chuộc tội, thể hiện thái độ tích cực hối lỗi, bản thân ăn năn hối cải, muốn lập công chuộc tội hoặc khắc phục, sửa chữa sai lầm của mình để hoàn lương thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát và giáo dục, Toà án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách. Đối với trường hợp người phạm tội được Hội đồng xét xử cho hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Toà án quyết định cho họ buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước đó và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 BLHS (khoản 4, 5 Điều 65 BLHS 2015). Như vậy, theo quy định của pháp luật, thời gian thử thách của án treo có ý nghĩa rất lớn đối với người được hưởng án treo. Người được hưởng án treo có thể được Tòa án xem xét rút ngắn thời gian thử thách nếu trong thời gian thử thách họ tự cải tạo tốt, họ có thể được Toà án xét giảm thời gian thử thách nhiều lần [28, tr 45].
1.2.3. Quy định về áp dụng hình phạt bổ sung khi cho hưởng án treo
Theo quy định tại khoản 3 Điều 65 BLHS 2015 thì người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung đi kèm là phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo quy định tại Điều 35 và Điều 41 của BLHS 2015. Đối với các tội phạm mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt bổ sung đi kèm hình phạt chính là bắt buộc, thì ngoài hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 3 Điều 65 BLHS 2015 người được hưởng án treo phải chịu thêm hình phạt bổ sung bắt buộc đó. Đối với các tội mà BLHS quy định có thể áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt bổ sung, thì ngoài hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 3 Điều 65 BLHS 2015, người được hưởng án treo có thể phải chịu thêm hình phạt bổ sung theo quy định của BLHS về hình phạt bổ sung đối với tội phạm mà họ đã thực hiện. Trong
trường hợp người được hưởng án treo phải chịu hình phạt bổ sung kèm hình phạt chính thì thời hạn chấp hành loại hình phạt bổ sung có thời hạn được tính từ ngày tuyên bản án đầu tiên cho hưởng án treo mà có hình phạt bổ sung.
1.2.4. Quy định về rút ngắn thời hạn thử thách án treo
Khoản 4 Điều 65 BLHS 2015 quy định “ Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và người đó có nhiều tiến bộ trong thời gian thử thách thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm theo dòi, giám sát và giáo dục, Toà án có thể ra quyết định rút ngắn thời gian thử thách”. Người được hưởng án treo có thể được Tòa án nhân có thẩm quyền quyết định rút ngắn thời gian thử thách của án treo khi có đủ các điều kiện sau: (1) Đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách của án treo;
(2) Có nhiều tiến bộ được thể hiện bằng việc trong thời gian thử thách người được hưởng án treo đã chấp hành nghiêm pháp luật, các nghĩa vụ theo Luật Thi hành án hình sự... (3) Được Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo đề nghị rút ngắn thời gian thử thách bằng văn bản.
Mỗi năm người được hưởng án treo chỉ có thể được xem xét rút ngắn thời gian thử thách duy nhất một lần từ 01 tháng đến 01 năm và người được hưởng án treo có thể được rút ngắn thời gian thử thách nhiều lần, nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành thời gian thử thách của họ là đủ ba phần tư thời gian thử thách đối với thời gian thử thách mà bản án đã tuyên đối với họ. Có ý kiến khác cho rằng, với quy định về điều kiện rút ngắn thời gian thử thách của án treo như trên là chưa đầy đủ như trong trường hợp chưa chấp hành hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và án phí mà lại được rút ngắn thời gian thử thách là không hợp lý, không thể hiện được nguyên tắc bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành [3, tr 43 - 45].