1.3. So sánh án treo với một số chế định khác
Án treo là một chế định pháp lý hình sự mà không phải quốc gia nào cũng có quy định. Từ lý luận và thực tiễn áp dụng án treo ở nước ta trong những năm vừa qua cũng như hiện nay thì cũng đã có rất nhiều quan điểm, quan niệm khác nhau về chế định án treo. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách chính xác, toàn diện, sâu rộng về chế định này là rất cần thiết và có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, góp phần đem đến một cách hiểu đúng đắn, toàn diện và thống nhất trong lý luận cũng như trong thực tế áp dụng án treo. Trong đó cần phân biệt chế định án treo với một số chế định có điểm tương đồng dễ gây hiểu lầm như:
1.1.3.1. So sánh án treo với hình phạt cải tạo không giam giữ
Để hiểu được bản chất và nắm vững được chế định án treo trong luật hình sự, thì một điều quan trọng là cần phải có sự phân biệt giữa chế định án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ - một loại hình phạt chính trong hệ thống hình phạt.
Thứ nhất: Những điểm chung:
Giữa án treo và cải tạo không giam giữ có điểm chung đầu tiên là cả hai đều không bắt người bị kết án cách ly ra khỏi cộng đồng, xã hội mà buộc người bị kết án phải tự giáo dục, cải tạo tại gia đình dưới sự quản lý, giám sát giáo dục của chính quyền địa phương.
Ngoài ra người bị án treo và cải tạo không giam giữ đều có thể bị Tòa án áp dụng thêm các loại hình phạt bổ sung. Các hình phạt bổ sung này đều được quy định trong Bộ luật hình sự.
Thứ hai: Những điểm khác nhau
+ Xét về bản chất án treo không phải là một loại hình phạt tù mà là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện đối với người phạm tội, còn cải tạo không giam giữ lại là một loại hình phạt chính nằm trong hệ thống hình phạt theo quy định của luật hình sự.
Trong quá trình xét xử, Tòa án quyết định người phạm tội được hưởng án treo hay không phải tiến hành qua các bước sau đây: Quyết định một mức hình phạt đối với người phạm tội tương ứng phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội (mức hình phạt từ đối với họ là phải từ ba năm trở xuống) và tiếp theo là: Hội đồng xét xử đánh giá, xem xét, đối chiếu với các điều kiện cụ thể để quyết định có cho hưởng án treo hay không và khi thấy thỏa mãn các điều kiện thì quyết định cho hưởng án treo, nói cách khác thì để quyết định cho hưởng án treo thì tòa án tiến hành qua hai bước: Bước 1 quyết định hình phạt đối với người phạm tội và Bước 2 quyết định cho người phạm tội hưởng án treo hay không?
Có thể bạn quan tâm!
- Áp dụng án treo từ thực tiễn tỉnh Bình Phước - 2
- Khái Niệm, Đặc Điểm Áp Dụng Án Treo
- Quy Định Về Áp Dụng Hình Phạt Bổ Sung Khi Cho Hưởng Án Treo
- Khái Quát Tình Hình Áp Dụng Án Treo Trên Địa Bàn Tỉnh Bình Phước
- Áp dụng án treo từ thực tiễn tỉnh Bình Phước - 7
- Thực Trạng Mối Quan Hệ Phối Hợp Giữa Tòa Án Và Các Cơ Quan Tiến Hành Tố Tụng Khác Trong Việc Áp Dụng Chế Định Án Treo Trên Địa Bàn Tỉnh Bình
Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.
Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ thì khi quyết định cho người phạm tội bị cải tạo không giam giữ Hội đồng xét xử chỉ cần xem xét đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội rồi trực tiếp quyết định luôn có áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội hay không?
+ Về điều kiện áp dụng: Cải tạo không giam giữ là một loại hình phạt nằm trong hệ thống hình phạt chính của BLHS chỉ áp dụng đối với tội phạm ít nghiêm trọng và nghiêm trọng, còn án treo có thể được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và trong nhiều trường hợp khác khi mức hình phạt tổng hợp của nhiều tội mà từ 3 năm trở xuống cũng có thể xem xét cho người phạm tội hưởng án treo. Nghĩa là phạm vi áp dụng án treo trên thực tế rộng hơn phạm vi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ và áp dụng án treo có mức độ nghiêm khắc hơn áp dụng cải tạo không giam giữ.
+ Về hậu quả pháp lý, trong thời gian thử thách nếu người đang được hưởng án treo phạm tội mới thì hậu quả pháp lý mà họ phải gánh chịu rất nặng nề. Đó là: Họ phải chịu tổng hợp hình phạt của cả hai bản án bao gồm hình phạt của lần phạm tội trước cộng với hình phạt của lần phạm tội mới.
Đối với người bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ nếu họ phạm tội mới trong thời gian đang chấp hành hình phạt, thì họ chỉ phải chịu phần thời gian còn lại của hình phạt cải tạo không giam giữ nhưng chuyển thành hình phạt tù (theo nguyên tắc chuyển ngày cải tạo không giam giữ thành hình phạt tù, cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ thành 01 ngày tù) rồi tổng hợp lại theo nguyên tắc tổng hợp hình phạt chung (Điều 56 BLHS).
Người phạm tội bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể bị khấu trừ một phần thu nhập của bản thân họ để sung công quỹ nhà nước cụ thể của mức khấu trừ thu nhập này là từ 5% đến 20%. Quy định này không áp dụng đối với người phạm tội hưởng án treo mà người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Như vậy, giữa án treo và cải tạo không giam giữ bên cạnh điểm giống nhau cũng có sự khác biệt rất rò nét.
Như vậy, có thể thấy rằng án treo thể hiện là một chế định pháp lý hình sự khoa học và tiến bộ, biểu hiện cụ thể của nguyên tắc trừng trị kết hợp với khoan hồng, thể hiện tính nhân văn, nhân đạo trong những quy định của hệ thống pháp luật hình sự ở nước ta.
1.1.3.2. So sánh án treo với tha tù trước thời hạn có điều kiện
Tha tù trước thời hạn có điều kiện là một chế định mới được quy định trong BLHS 2015 sửa đổi 2017 đã thể hiện rò nguyên tắc nhân đạo và chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà nước đối với người phạm tội.
Chế định án treo và tha tù trước thời hạn có điều kiện có điểm giống nhau cơ bản là: đều do Tòa án nhân dân quyết định; có thời gian thử thách; người được hưởng án treo, người được tha tù trước hạn có điều kiện đều được giao cho Chính quyền địa hương nơi cư trú, cơ quan làm việc quản lý giáo dục; được rút ngắn thời gian thử thách; họ đều phải chịu chế tài nghiêm khắc khi phạm tội, vi phạm pháp luật trong thời gian thử thách;
Bên cạnh những điểm giống nhau thì hai chế định này khác nhau sau:
Về thẩm quyền: Tha tù trước thời hạn có điều kiện do TAND cấp Tỉnh quyết định theo đề nghị của các trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh nơi quản lý phạm nhân thông qua phiên họp. Án treo do HĐXX quyết định trực tiếp tại phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm
Về đối tượng: Đối tượng được tha tù trước thời hạn có điều kiện là phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại các trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 66, Điều 106 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Đối tượng được hưởng án treo khi có đầy đủ những điều kiện theo quy định của BLHS như về tổng mức hình phạt không quá ba năm, nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 15 BLHS
Về hậu quả pháp lý: Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện chưa chấp hành xong bản án, chỉ thay đổi hình thức chấp hành án từ trong các cơ sở giam giữ sang quản lý tại cộng đồng dân cư trong thời gian còn lại của bản án (gọi là thời gian thử thách). Sau khi được ra khỏi cơ sở giam giữ, người được tha tù trước thời hạn có điều kiện phải chịu sự quản lý, giám sát, giáo dục của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật (cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã…) cho đến khi hết thời hạn chấp hành thời gian thử thách, họ sẽ được cấp giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù.
Tóm lại: Trên cơ sở chế định án treo quy định trong các sắc lệnh và các BLHS nêu trên, chúng ta thấy được tư duy của các nhà làm luật trong việc xây dựng chế định án treo là: Đi từ nhận thức án treo là hình thức xử lý nhẹ hơn án tù, án treo là biện pháp hoãn hình có điều kiện, án treo là biện pháp tạm đình chỉ thi hành án đến nhận thức án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, không coi án treo là hình phạt; mà án treo là sự thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng, hướng thiện trong đường lối lãnh đạo của Đảng về chính sách pháp luật hình sự Việt Nam.
1.4. Chủ thể, quan hệ phối hợp trong áp dụng án treo
1.4.1. Chủ thể quyết định áp dụng án treo (Tòa án, thẩm quyền của Tòa án trong xét xử tội phạm, cho người phạm tội được hưởng án treo)
Về bản chất, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do cơ quan có thẩm quyền quyết định là Tòa án nhằm trừng trị đồng thời giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho cộng đồng xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật ngăn ngừa họ phạm tội mới. Đây được xem là mục đích chính và là nội dung cơ bản của bản chất hình phạt trong luật hình sự nước ta. Mục đích này không chỉ được thể hiện ngay trong nội dung các loại hình phạt mà nó còn được thể hiện ngay trong chế định khác của Bộ luật hình sự - trong đó có chế định về án treo… Tất cả các quy định này cũng chỉ nhằm một mục đích là cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội.
Chế định án treo theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 cơ bản vẫn kế thừa Bộ luật hình sự năm 1999, khi Tòa án xét thấy không cần thiết bắt người phạm tội phải chấp hành hình phạt tù, thì có thể cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo chấp hành tốt, có nhiều tiến bộ thì Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người phạm tội được hưởng án treo có trách nhiệm phối hợp với cơ quan có thẩm quyền, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc theo dòi, giám sát, giáo dục người phạm tội. Tòa án có thể quyết định áp dụng hình phạt bổ sung đối với người được hưởng án treo nếu trong điều luật có quy định hình phạt bổ sung đối với loại tội phạm đó.
Do đó, chỉ có Tòa án – thông qua Hội đồng xét xử trực tiếp tại phiên tòa mới có thẩm quyền xem xét các điều kiện theo quy định tại Điều 65 BLHS 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành quyết định người phạm tội có đủ điều kiện để hưởng án treo hay không? Thời gian thi hành bản án treo thế nào? Giao cho địa phương, cơ quan nào chịu trách nhiệm giám sát, quản lý…
1.4.2. Quan hệ phối hợp trong quyết định áp dụng chế định án treo
Quan hệ phối hợp trong quyết định áp dụng chế định án treo là quan hệ giữa TA, VKS và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như cơ quan thi hành án, chính quyền cơ sở trong việc giám sát người chấp hành án treo tại địa phương.
Để chế định án treo được áp dụng tuân thủ thống nhất cần căn cứ BLTTHS, BLHS, Luật THAHS, Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TANDTC: Hướng dẫn thi hành Điều 65 BLHS, Quy chế công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự (Ban hành kèm theo Quyết định số 501/QĐ-VKSTC ngày 12 tháng 12 năm 2017 của Viện trưởng VKSNDTC) để kiểm sát chặt chẽ từ nội dung bản án của Tòa án đã tuyên có hiệu lực pháp luật đến công tác tổ chức thi hành án treo gồm kiểm sát các nội dung sau: Kiểm sát việc ra quyết định thi hành án và gửi quyết định thi hành án; kiểm sát việc thi hành án treo; kiểm sát việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã, đơn vị quân đội trong việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo; kiểm sát việc lao động, học tập của người được hưởng án treo; kiểm sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan có liên quan trong việc xét rút ngắn thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo (đảm bảo theo quy định tại Điều 4 Thông tư liên tịch số 08/2012/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC, kiểm sát thủ tục xét rút ngắn thời gian thử thách; kiểm sát việc bổ sung hồ sơ thi hành án treo của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội, được giao giám sát, giáo dục người được hưởng án treo; kiểm sát việc giải quyết trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc. Để kiểm sát việc áp dụng án
treo tại các địa phương, VKS phải có sổ theo dòi việc thi hành án treo và có các phương thức kiểm sát phù hợp đối với việc áp dụng án treo trong thực tiễn. VKS có thể trực tiếp kiểm sát việc áp dụng án treo tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc tại địa phương nơi có người bị kết án đang chấp hành bản án để kiểm tra, giám sát hoạt động thi hành án treo tại đây. Việc trực tiếp kiểm sát có thể tiến hành theo định kỳ thời gian, khi phát hiện có vi phạm pháp luật: Chính quyền địa phương không cử người giám sát, theo dòi, giáo dục người bị kết án, không có những hoạt động quản lý người bị kết án… thì VKS phải kháng nghị hoặc kiến nghị yêu cầu khắc phục, chấn chỉnh các vi phạm. Ngoài việc sử dụng quyền trực tiếp kiểm sát, VKS có thể định kỳ theo những mốc thời gian nhất định yêu cầu cơ quan hoặc chính quyền địa phương nơi có người thi hành án treo tự kiểm tra và báo cáo kết quả kiểm tra cho VKS biết. Sau khi có báo cáo kết quả kiểm tra của địa phương, VKS đánh giá và xử lý các thông tin về người áp dụng án treo để phát hiện vi phạm pháp luật và có biện pháp khắc phục kịp thời.
Qua đó cho thấy, mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thi hành án treo còn nhiều bất cập. Thực tế này đang tạo ra những những bất cập, những kẽ hở trong công tác quản lý, giáo dục người chấp hành án treo.
Tiểu kết chương 1
Trong Chương 1 của luận văn, tác giả đã tiến hành đánh giá, phân tích, làm rò những vấn đề lý luận về áp dụng án treo như: Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của án treo; khái niệm, đặc điểm của áp dụng án treo; quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về điều kiện áp dụng án treo, về thời gian thử thách của án treo, về áp dụng hình phạt bổ sung khi cho hưởng án treo, về rút ngắn thời hạn thử thách án treo và một số quy định khác. Ngoài ra, tác giả còn tiến hành so sánh chế định án treo với một số chế định tương tự trong luật hình sự.
Những kết quả nghiên cứu của chương 1 là tiền đề để tác giả có được một cái nhìn toàn diện nhất về hoạt động áp dụng án treo. Qua đó đánh giá tình hình có liên quan và thực tiễn áp dụng án treo tại tỉnh Bình Phước ở chương 2.