Ảnh hưởng của vốn xã hội đến lợi ích của người dân địa phương trong phát triển du lịch sinh thái tại các vườn quốc gia Đồng bằng sông Hồng và Duyên Hải Đông Bắc - 2



STT

Từ viết tắt

Diễn giải

17

KBTTN

Khu bảo tồn thiên nhiên

18

KT - XH

Kinh tế - Xã hội

19

KUHGT

Không ủng hộ giả thuyết

20

MQH

Mối quan hệ

21

NDĐP

Người dân địa phương (Local people)

22

NKH

Nhân khẩu học

23

NGOs

Non - governmental organizations (NGOs)

24

PTBV

Phát triển bền vững

25

QCQL

Quy chế quản lý

26

THCS

Trung học cơ sở

27

THPT

Trung học phổ thông

28

TIES

The Internatonal Ecotourism society (Hiệp hội du lịch sinh thái thế giới)


29


UNESCO

The United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc)

30

USAID

United States Agency for International Development

(Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ)

31

VH - XH

Văn hóa - Xã hội

32

VXH

Vốn xã hội (Social capital)

33

VQG

Vườn quốc gia (National park)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 250 trang tài liệu này.

Ảnh hưởng của vốn xã hội đến lợi ích của người dân địa phương trong phát triển du lịch sinh thái tại các vườn quốc gia Đồng bằng sông Hồng và Duyên Hải Đông Bắc - 2


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Tổng hợp các yếu tố của VXH được nghiên cứu trong du lịch 21

Bảng 2.2: Tổng hợp và bình luận một số khái niệm tiêu biểu về DLST 27

Bảng 2.3: Vai trò của VXH trong phát triển du lịch có sự tham gia của cộng đồng 43

Bảng 2.4: Một số kết quả nghiên cứu về những ảnh hưởng của VXH đến lợi ích của NDĐP

trong phát triển du lịch và DLST 46

Bảng 2.5: Các giả thuyết nghiên cứu 58

Bảng 3.1: Thang đo VXH 69

Bảng 3.2: Thang đo lợi ích phát triển DLST 71

Bảng 3.3: Thang đo NKH 73

Bảng 4.1: Tổng hợp về quy mô, cơ cấu của lượng khách và doanh thu trong phát triển DLST ở VQG Cúc Phương, VQG Cát Bà và VQG Ba Vì giai đoạn 2014 - 2017 79

Bảng 4.2: Thống kê mô tả mẫu nghiên cứu (n = 318) 81

Bảng 4.3: Kết quả kiểm định sơ bộ thang đo 83

Bảng 4.4: Kiểm định KMO nhân tố VXH 86

Bảng 4.5: Tổng hợp kết quả phân tích EFA các thang đo của VXH 87

Bảng 4.6: Kiểm định KMO nhân tố lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST 88

Bảng 4.7: Tổng hợp kết quả phân tích EFA các thang đo lợi ích của NDĐP trong phát triển

DLST 88

Bảng 4.8: Các giả thuyết nghiên cứu điều chỉnh 90

Bảng 4.9: Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính ảnh hưởng tổng thể của VXH đến lợi ích

của NDĐP trong phát triển DLST 93

Bảng 4.10: Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính ảnh hưởng của VXH đến lợi ích chính trị

của NDĐP trong phát triển DLST 94

Bảng 4.11: Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính ảnh hưởng của VXH đến lợi ích kinh tế

trong phát triển DLST 95

Bảng 4.12: Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính ảnh hưởng của VXH đến lợi ích VH - XH cho cá nhân/hộ gia đình trong phát triển DLST 96

Bảng 4.13: Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính ảnh hưởng của VXH đến lợi ích VH - XH cho cộng đồng trong phát triển DLST 97

Bảng 4.14: Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính ảnh hưởng của VXH đến lợi ích môi trường trong phát triển DLST 98

Bảng 4.15: Tổng hợp kết quả phân tích kiểm định ảnh hưởng của VXH đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST 99

Bảng 4.16: Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính ảnh hưởng kiểm soát của yếu tố NKH đến

lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST 101

Bảng 4.17: Tổng hợp kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của VXH đến lợi ích của NDĐP trong

phát triển DLST ở các VQG Cúc Phương, Ba Vì và Cát Bà 105

Bảng 4.18: Tổng hợp kết quả kiểm định các giả thuyết nghiên cứu 109


DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1: Mô hình nghiên cứu về các yếu tố cấu thành của VXH 19

Hình 2.2: Mô hình nghiên cứu tích hợp các yếu tố đo lường VXH 20

Hình 2.3: Xu hướng phát triển của DLST giai đoạn những năm 1990 - 2000 33

Hình 2.4: Mô hình các quan hệ đối tác cần thiết cho sự thành công của DLST 37

Hình 2.5: Mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của VXH đến lợi ích của NDĐP trong

phát triển DLST tại các VQG vùng ĐBSH&DHĐB 57

Hình 3.1: Sơ đồ quy trình thực hiện nghiên cứu 61

Hình 4.1: Mô hình điều chỉnh nghiên cứu ảnh hưởng của VXH đến lợi ích của NDĐP trong DLST tại các VQG vùng ĐBSH&DHĐB 89

Hình 4.2: Mức độ ảnh hưởng của VXH đến lợi ích của NDĐP trong phát triển

DLST ở các VQG Cúc Phương, Ba Vì và Cát Bà 107

Hình 5.1: MQH giữa các bên liên quan trong phát triển DLST tại các VQG 137


CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU


1.1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu

1.1.1. Về mặt lý luận

Ngày nay, xu hướng hội nhập sâu rộng của nền kinh tế quốc tế cùng những tác động của thay đổi môi trường toàn cầu đã và đang đặt ra những cơ hội và thách thức mới cho ngành du lịch của mỗi quốc gia, đòi hỏi các bên tham gia phải tăng cường hợp tác và chuyển mình để bắt kịp với những biến đổi nhanh chóng đó. Ngoài động cơ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH), tăng cường quan hệ hiểu biết lẫn nhau vì một thế giới hòa bình và thịnh vượng, du lịch trong bối cảnh mới còn được xem là một phương tiện để bảo vệ môi trường (BVMT) và góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Xu hướng phát triển du lịch có trách nhiệm đã dần phác họa và định hình nên bức tranh tổng thể của ngành du lịch thời hiện đại gắn với mục tiêu phát triển bền vững (PTBV). Thay vì tập trung vào tiềm năng, sự sẵn có của tài nguyên du lịch, trọng tâm phát triển du lịch đang dần chuyển dịch sang hướng tiêu dùng có trách nhiệm - “xem, hưởng thụ nhưng không gây hại” và nỗ lực đảm bảo cân bằng lợi ích cho các bên tham gia (Weaver, 2001).

Du lịch có trách nhiệm được quan tâm từ những năm 1980 (Mathieson and Wall, 1982; Krippendorf, 1987; Lea, 1988...). Sau đó, có nhiều nghiên cứu (Butler, 1990; Poon, 1993; Valentine, 1993; Buckley 1994; Pagdin, 1995; Wearing and Neil, 1999; Wearing, 2001...) về các loại hình/xu hướng du lịch mới “truyền tải thông điệp có trách nhiệm” đã ra đời như: du lịch xanh (green tourism), du lịch sinh thái (DLST - ecotourism), du lịch cộng đồng (community tourism), du lịch thay thế (alternative tourism)... Trong đó, DLST được quan tâm hơn cả bởi đây được xem là loại hình du lịch đảm bảo mục tiêu PTBV trên các mặt KT - XH, môi trường (Obenaus, 2005; Gray and Campbell, 2007) và có nhiều ưu điểm hơn so với các loại hình du lịch đại chúng (mass tourism) trước đây (Marzouki et al., 2012). Điểm khác biệt cơ bản của DLST so với các loại hình du lịch thông thường là không chỉ thỏa mãn nhu cầu (khám phá, học hỏi, mở rộng tầm hiểu biết) cho khách du lịch mà còn mang lại lợi ích cho người dân địa phương (NDĐP), có giáo dục BVMT và ủng hộ bảo tồn (Wood, 2002). Từ khi ra đời đến nay, DLST đã được quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo Fennell (2001, tr. 407), kết quả sau khi tổng hợp 85 khái niệm về DLST cho thấy:

Có 20 từ khóa chủ yếu được sử dụng liên quan đến DLST, trong đó các yếu tố được nhắc đến nhiều nhất là: gắn với các khu vực tự nhiên (chiếm 62,4%), bảo tồn (61,2%), giá trị văn hóa (50,6%), tạo ra lợi ích cho NDĐP (48,2%), giáo dục (41,2%), tính bền vững (25,9%) và các tác động/ảnh hưởng (25%).


DLST đang là sự lựa chọn mang tính xu hướng phát triển tất yếu ở cả hiện tại và tương lai như một trong những “cứu cánh” giúp hỗ trợ giải quyết các vấn đề thay đổi môi trường toàn cầu và nâng cao trách nhiệm xã hội đối với cộng đồng dân cư bản địa. Là một hướng nghiên cứu thú vị và có sức hấp dẫn đối với nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực du lịch nhưng theo nghiên cứu của Fennell (2001) và qua kết quả công bố của những công trình gần đây (Weaver and Lawton, 2007; Cobbinah, 2015; Chandel and Mishra, 2016….) cho thấy không dễ gì tìm thấy các khoảng trống trong nghiên cứu về DLST bởi hầu như các khía cạnh liên quan đến DLST đa phần đã được quan tâm nghiên cứu hoặc đã được đề cập đến trong một chừng mực nào đó. Trong các hướng nghiên cứu về DLST, nghiên cứu về các lợi ích cũng như các nhân tố ảnh hưởng đến lợi ích của người dân địa phương (NDĐP) khi tham gia phát triển DLST là một hướng nghiên cứu tuy không mới nhưng còn ít được quan tâm nên một số khía cạnh có thể chưa được thăm dò nghiên cứu hoặc đã được phát hiện nhưng chưa có nhiều nghiên cứu khám phá, kiểm định tổng hợp các mối quan hệ (MQH) này (Matilde and Gunnarsdotter, 2012; Mondino and Beery, 2016; Nsukwini and Bob, 2016).

Nhấn mạnh vai trò của NDĐP trong phát triển DLST, Scheyvens (1999) đã chỉ ra DLST chỉ thành công khi chia sẻ công bằng các lợi ích của NDĐP thông qua việc trao quyền cho họ được hưởng các giá trị về kinh tế, văn hóa - xã hội (VH - XH) và chính trị. Fennell (2001) đã tổng hợp yếu tố lợi ích của NDĐP chiếm 48,2% các nghiên cứu liên quan đến DLST. Tuy nhiên, đa phần các công trình chưa đề cập rõ đó là những lợi ích gì (chiếm 58,1%); còn lại, lợi ích về kinh tế (chiếm 22,4%), lợi ích chung (15,3%), phúc lợi xã hội (9,4%) và phát triển cộng đồng (1,2%). Theo Cobbinah (2015), lợi ích của phát triển DLST có sự bổ sung, điều chỉnh theo hướng trước đây (những năm 1990) gắn chủ yếu với lợi ích giáo dục và BVMT. Sau đó, bổ sung thêm lợi ích KT - XH, sự công bằng, trách nhiệm bảo tồn văn hóa và PTBV. Gupta and Rout (2016) cho rằng: phát triển DLST cũng đồng nghĩa với việc mang lại các các lợi ích cho NDĐP, bao gồm trao quyền cho cộng đồng, gia tăng thu nhập, cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo công ăn việc làm và BVMT. Như vậy, dù đề cập dưới các quan điểm khác nhau, lợi ích của của NDĐP trong phát triển DLST có thể bao gồm bốn nhóm: lợi ích chính trị, kinh tế, VH - XH và BVMT. Tuy nhiên, phần lớn các công trình mới chỉ tập trung nghiên cứu một vài lợi ích từ việc tham gia phát triển DLST của NDĐP mà chưa quan tâm nhiều đến những yếu tố ảnh hưởng đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST để làm căn cứ đề xuất gia tăng lợi ích cho NDĐP trong từng bối cảnh cụ thể. Nhận định này được củng cố qua kết quả nghiên cứu của Fennell (2001), yếu tố lợi ích của NDĐP được quan tâm nghiên cứu khá nhiều (48,2%), nhưng phần lớn các nghiên cứu này chưa chỉ ra cụ thể các yếu tố nào có ảnh hưởng đến lợi ích của NDĐP. Nghiên


cứu nhắc đến yếu tố tác động/ảnh hưởng (impacts/effects) nhưng mới chỉ đề cập đến những tác động của DLST đến môi trường (không tiêu dùng, tác động thấp…). Bên cạnh đó, các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển DLST thường thay đổi theo thời gian, bối cảnh (KT - XH), thể chế, chính sách (quốc gia, địa phương), nguồn lực (tự nhiên, văn hóa, tài chính, con người) và mức độ hợp tác, liên kết của các bên tham gia… Vì thế, khó có mô hình nghiên cứu tổng quát nào đảm bảo tính đại diện cho mối quan hệ giữa phát triển DLST/lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST và các yếu tố ảnh hưởng đến chúng khi nguồn lực, đặc điểm KT - XH, thể chế chính trị tại mỗi bối cảnh, thời điểm nghiên cứu là khác nhau. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST thực sự cần thiết bởi nếu đánh giá, phân tích/kiểm định được ảnh hưởng (tích cực hoặc hạn chế) của những yếu tố này trong từng bối cảnh cụ thể có thể cung cấp thêm cơ sở lý luận làm căn cứ góp phần giúp NDĐP và các bên liên quan có thêm gợi ý định hướng khai thác hiệu quả hơn hoạt động DLST trong thực tiễn.

Khi nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển KT - XH nói chung và du lịch nói riêng, tiếp cận dưới góc độ các loại vốn của một quốc gia hay một địa phương nào đó, theo DFID (1999) và Goodwin (2003) và có 05 loại cơ bản, bao gồm: vốn tự nhiên, vốn con người, vốn tài chính, vốn sản xuất và vốn xã hội (VXH). Trong đó, vốn tự nhiên được xem là tài nguyên thiên nhiên có giá trị cung cấp nguyên, nhiên liệu cho sản xuất, dịch vụ. Vốn con người bao gồm sức khỏe, kiến thức, kỹ năng và động lực của mỗi cá nhân được hình thành chủ yếu thông qua rèn luyện, giáo dục, đào tạo. Vốn tài chính tạo điều kiện cho việc giao dịch và sở hữu các loại vốn khác thông qua giá trị quy đổi của nó. Vốn sản xuất chính là các hàng hóa vật chất hoặc tài sản cố định tham gia vào quá trình sản xuất của con người. VXH theo Coleman (1988) là khái niệm chỉ “mạng lưới quan hệ và cách thức tương tác giữa con người với nhau trong mạng lưới nhằm mang lại lợi ích cho cả cá nhân và tập thể”.

Sự thịnh vượng về nền kinh tế và sự tiến bộ trong đời sống VH - XH của một quốc gia/địa phương thông thường được biểu hiện ở “vốn hữu hình” và các các khía cạnh vật chất như sức mạnh về kinh tế (thu nhập, đóng góp cho GDP, giá trị tiền tệ…) hay được đo lường bằng các chỉ tiêu về chất lượng cuộc sống, trình độ dân trí… Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, lợi ích cho phát triển KT - XH nói chung hay du lịch nói riêng không phải lúc nào cũng do những giá trị vật chất, những “thước đo ngang giá” - “vốn hữu hình” mang lại mà còn có thể do các yếu tố “vô hình” như các giá trị được tạo dựng từ lòng tin, sự tôn trọng các chuẩn mực, quy tắc, sự liên kết hợp tác trên tinh thần chia sẻ, tương trợ lẫn nhau. Đây là những mặt biểu hiện của VXH (Putnam, 1995; Dasgupta and Serageldin, 1999; Dodd, 2016). VXH được hình


thành từ mối quan hệ giữa các cá nhân/nhóm người trong xã hội, được xem như một “nguồn lực” quan trọng trong phát triển KT - XH và mang lại lợi ích cho các bên tham gia. Lòng tin là hạt nhân của VXH, là chữ tín trong quan hệ giữa các cá nhân, là “chất keo” gắn kết và duy trì mạng lưới các quan hệ xã hội (Hoàng Bá Thịnh, 2009). Để duy trì VXH, cũng giống như các trao đổi khác, tác nhân (cá nhân/tổ chức) muốn có điều mình muốn thì phải “trao đổi” cái mà người khác muốn ở mình; phí tổn để trao đổi trong VXH không phải lúc nào cũng là “ngang giá”, bởi hạt nhân của VXH là lòng tin mà những chi phí cho lòng tin chính là sự tin cậy lẫn nhau, là lòng quảng đại giữa con người với con người dựa trên sự tin tưởng đã có để giải quyết các vấn đề chung.

Trong các nghiên cứu về MQH giữa VXH và phát triển du lịch nói chung và DLST nói riêng cho thấy VXH được xem là yếu tố đóng vai trò quan trọng giúp cho NDĐP có thể trực tiếp quản lý nguồn tài nguyên, tăng cường tham gia và hưởng lợi từ DLST để nâng cao đời sống KT - XH, bảo tồn các giá trị văn hóa và nâng cao ý thức BVMT. Foucat (2002) cho rằng: các yếu tố lòng tin, sự chia sẻ, liên kết, cam kết công bằng giúp đảm bảo các lợi ích chính trị, KT - XH và nâng cao nhận thức BVMT cho NDĐP trong quản lý DLBV. Jones (2005) đã chỉ ra: VXH, đặc biệt là yếu tố hợp tác là nền tảng thúc đẩy sự tham gia của NDĐP trong phát triển DLST. Liu et al. (2014), nhận thấy: VXH có ảnh hưởng đến các hành vi ủng hộ môi trường của NDĐP. Park et al. (2012) đã bình luận: những người dân tham gia kinh doanh du lịch có thể có VXH cao hơn so với những người khác; khi VXH cao người dân có xu hướng tuân thủ các chuẩn mực xã hội và có lòng tin trong phát triển du lịch; đồng thời, phát triển du lịch là yếu tố quan trọng để xây dựng sự tin tưởng và hợp tác trong cộng đồng. Marcinek and Hunt (2015) cũng chứng minh được rằng: DLST là một lựa chọn sinh kế cho cộng đồng, là phương tiện để tăng nguồn VXH; đồng thời VXH sẽ giúp khuyến khích phát triển DLST, thúc đẩy việc trao quyền ra quyết định, cùng hưởng lợi làm giảm bất bình đẳng giới, gia tăng các lợi ích KT - XH, văn hóa, môi trường cho NDĐP. Như vậy, hiện nay đã có không ít các nghiên cứu khám phá về vai trò, ảnh hưởng của VXH đến sự tham gia của NDĐP và lợi ích phát triển DLST. Những nghiên cứu này có một số điểm đáng chú ý như sau:

Một là, có xu hướng tập trung vào việc khám phá MQH giữa VXH và phát triển DLST trong các cộng đồng ở khu vực nông thôn, trang trại, ven biển… còn ít các nghiên cứu thăm dò, khám phá MQH này ở các VQG, khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) - những địa bàn được đánh giá là lý tưởng để phát triển DLST nhưng thường được vận hành bởi cơ chế quản lý của nhà nước/chính quyền sở tại gắn với trách nhiệm bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH), bảo vệ nghiêm ngặt các nguồn gen quý


hiếm nên có những giới hạn nhất định về phạm vi lãnh thổ khai thác và NDĐP cũng ít có cơ hội được trao quyền tham gia bộ máy quản lý, tổ chức vận hành các hoạt động kinh doanh (Obenaus, 2005; Siswanto and Moeljadi, 2015). Một số nghiên cứu trong các địa bàn này thường tập trung đánh giá vai trò của VXH đối với công tác bảo tồn ĐDSH và BVMT (Pretty and Smith, 2003; Liu et al., 2014; Nguyen, 2007; Marcinek and Hunt, 2015…); trong khi đó để hỗ trợ phát triển cộng đồng, việc mang lại các lợi ích khác cho NDĐP thông qua phát triển DLST cũng rất đáng được quan tâm.

Hai là, các nghiên cứu trước khi tìm hiểu, phân tích MQH ảnh hưởng của VXH đến việc phát triển/lợi ích phát triển DLST thường sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính (Foucat, 2002; Pretty and Smith, 2003; Sawatsky, 2003; Macbeth et al., 2004; Jones, 2005; Okazaki, 2008; Stronza and Gordillo, 2008; Mauerhofer, 2010; Marcinek and Hunt, 2015…) để khám phá bản chất của VXH và ảnh hưởng của nó đến phát triển/lợi ích phát triển của DLST. Số ít trong các hướng nghiên cứu này sử dụng phương pháp định lượng (Nguyen, 2007; Zhao et al., 2011; Park et al., 2012; Liu and et al., 2014…). Các nghiên cứu có sử dụng phương pháp định lượng thường chỉ lựa chọn một vài yếu tố của VXH để khám phá MQH với một/vài yếu tố trong lợi ích phát triển DLST như: Liu et al. (2014) khám phá ảnh hưởng của VXH đối với hành vi ủng hộ môi trường, Nguyen (2007) đánh giá vai trò của VXH đối với hoạt động bảo tồn, Park et al. (2012) nghiên cứu ảnh hưởng của VXH đến sự tham gia của NDĐP trong phát triển của DLST… Các nghiên cứu định tính có những đánh giá, phân tích khá đa dạng về MQH ảnh hưởng của VXH đối với việc phát triển/lợi ích phát triển của DLST. Đặc biệt, nghiên cứu của Foucat (2002), Jones (2005)… cho thấy rõ MQH giữa các yếu tố của VXH và các lợi ích mà nó mang lại cho NDĐP trong phát triển DLST trên các mặt chính trị, kinh tế, VH - XH và BVMT. Tuy nhiên, VXH là một yếu tố “dễ thay đổi theo không gian, thời gian và chịu sự chi phối của bối cảnh chính trị, KT - XH” nên “VXH cần được tiếp tục quan tâm, khám phá” (Bourdieu, 1983, 1986; Coleman, 1988; Nguyen, 2007). Ở những bối cảnh và thời điểm khác nhau có thể sẽ có những kết quả không đồng nhất. Vì vậy, VXH ảnh hưởng như thế nào đến các lợi ích của NDĐP/các bên tham gia trong phát triển DLST ở từng thời điểm, bối cảnh và đặc điểm thể chế khác nhau đang là một chủ đề nghiên cứu rộng mở cho các nhà khoa học tiếp tục đào sâu nghiên cứu và khám phá.

Khái niệm VXH đã xuất hiện từ lâu trên thế giới nhưng ở Việt Nam là một hướng nghiên cứu khá mới (Nguyễn Vũ Quỳnh Anh, 2013). Qua các nghiên cứu về VXH xuất hiện từ những năm 1990 đến nay, có thể thấy hai chủ đề mà các bài viết về VXH ở Việt Nam tập trung quan tâm là: (i) Các phân tích, trao đổi, bình luận, giới

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/03/2023