Những Yêu Cầu Cơ Bản Đối Với Du Lịch Sinh Thái.


tốt, họ cũng là những nguồn thu lợi hiệu quả góp phần vào cho việc bảo tồn và cải thiện sinh kế cho người dân ở đây như một giải pháp trước mắt, nhưng đó không phải là đối tượng chính của hoạt động du lịch sinh thái. Mà các hoạt động du lịch sinh thái ở đây phải được xây dựng bám sát định nghĩa về du lịch sinh thái. Nhằm đảm bảo rằng phát triển du lịch sinh thái không làm tổn hại đến Vườn quốc gia và tăng nguồn thu nhập một cách bền vững cho cộng đồng địa phương bằng các hoạt động du lịch sinh thái.

Hiện nay DLST đang đóng một vai trò quan trọng trong nhiều dự án bảo tồn thiên nhiên và phát triển cảnh quan, các mục tiêu của DLST có liên quan đến các khu bảo tồn thiên nhiên là: [6]

- Sự tương thích về mặt sinh thái và văn hóa của phát triển du lịch là một điều kiện quan trọng.

- Phát triển Du lịch phải hỗ trợ tài chính cho công tác bảo tồn ở các khu BTTN và VQG.

- Tạo thu nhập cho người dân địa phương.


- Góp phần quan trọng nhằm thuyết phục mọi người chấp nhận bảo tồn thiên nhiên là một kết quả gián tiếp của các tác động kinh tế.

Du lịch sinh thái là cách tốt nhất nhằm giúp cả cộng đồng địa phương và các KBTTN & VQG. Đó cũng là một hợp phần lý tưởng của chiến lược phát triển bền vững trong đó tài nguyên thiên nhiên được sử dụng như một yếu tố thu hút khách du lịch mà không gây tác hại tới thiên nhiên của khu vực. Là một công cụ quan trọng trong quản lý các KBTTN & VQG. Tuy vậy phát triển DLST phải đảm bảo được phát triển phù hợp với hoàn cảnh cụ thể.

Với rất nhiều khái niệm khác nhau song chúng ta có thể biểu diễn DLST bằng sơ đồ sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 149 trang tài liệu này.

O

DU LỊCH

Phát triển du lịch sinh thái Vườn quốc gia Tam Đảo trong bảo tồn đa dạng sinh học - 3

TỰ NHIÊN

DU LỊCH HỖ TRỢ BẢ TỒN VÀ PHÁT TRIỂN

BỀN VỮNG

DU LỊCH

DLS

T

DU LỊCH CÓ GIÁO DỤC MÔI TRƯỜNG

DU LỊCH ĐƯỢC QUẢN LÝ BỀN VỮNG

Sơ đồ 1.1: Cấu trúc Du lịch Sinh thái [16]

Như vậy DLST là loại hình du lịch dựa vào tài nguyên thiên nhiên và văn hóa của cộng đồng địa phương, được thiết kế mang tính giáo dục môi trường cao. Nhằm mang lại nguồn lợi kinh tế cho cộng đồng địa phương và công tác bảo tồn, trong đó phát huy sự tham gia của cộng đồng địa phương.

1.1.2. Nguyên tắc cơ bản phát triển Du Lịch Sinh Thái

Những nguyên tắc đảm bảo trong du lịch sinh thái không chỉ cho các nhà quy hoạch, quản lý tổ chức, điều hành du lịch mà cho cảc hướng dẫn vi ên, cộng đồng dân địa phương.[15]

- Phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi, tham quan giải trí, khám phá tìm hiểu tự nhiên và con người. Đây chính là nguyên tắc c ơ bản trong hoạt động DLST.

- Hỗ trợ công tác bảo tồn tài nguyên du lịch sinh thái nói riêng và tài nguyên ở các Vườn Quốc gia, khu bảo tồn nói chung. Cụ thể là DLST phải


được tổ chức có tính khoa học, có tính giáo dục môi trường cao, đồng thời đem lại lợi nhuận tái phục vụ cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học.

- Hỗ trợ kinh tế địa phương, tạo thêm những lợi ích kinh tế lâu dài cho cộng đồng dân địa phương, những người có quyền làm chủ cho sự phát triển và trong công tác hoạch định du lịch.

Xuất phát từ những khái niệm về DLST ở trên chúng ta có thể thấy để phát triển DLST cần phải đảm bảo những nguyên tắc cơ bản trên. Nếu các hoạt động du lịch mà không đáp ứng được các tiêu chí trên thì không thể xem là DLST.

1.1.3. Đặc trưng cơ bản của du lịch sinh thái

Các hoạt động DLST khác với các loại hình du lịch khác ở các đặc trưng chủ yếu sau: [16]

* Dựa trên địa bàn hấp dẫn về tự nhiên: Đối tượng của DLST là những khu vực hấp dẫn với các đặc điểm phong phú về tự nhiên, đa dạng về sinh học và kể cả những nét văn hoá bản địa đặc sắc. Đặc biệt, những khu tự nhiên còn tương đối nguyên sơ, ít bị tác động lớn bởi các hoạt động của con người. Chính vì vậy, hoạt động DLST thường diễn ra và thích hợp tại lãnh thổ các Vườn quốc gia và các khu Bảo tồn tự nhiên.

* Hỗ trợ bảo tồn, đảm bảo bền vững về sinh thái: Thách thức đối với DLST trong bất kỳ một quốc gia hay một khu vực nào là khai thác hợp lý tiềm năng cho du lịch, đảm bảo chất lượng sản phẩm mà lại không gây tác động có hại ngược trở lại môi trường. DLST có thể tạo ra nguồn thu cho việc quản lý bảo tồn nguồn tài nguyên ngoài những lợi ích về văn hoá-xã hội. Sự đóng góp về tài chính với một phần chi phí trong chuyến đi của du khách có thể giúp chi trả cho các dự án bảo tồn đa dạng sinh học.


* DLST gắn liền với giáo dục môi trường: Đặc điểm GDMT trong DLST là một yếu tố cơ bản thứ hai phân biệt nó với loại du lịch tự nhiên khác. Giải thích và GDMT là những công cụ quan trọng trong việc tăng thêm những kinh nghiệm du lịch thú vị và nâng cao kiến thức và sự trân trọng môi trường cho du khách, dẫn đến hành động tích cực đối với bảo tồn, góp phần tạo nên sự bền vững lâu dài của hoạt động DLST trong những khu tự nhiên.

* Mang lại lợi ích cho địa phương: DLST cải thiện đời sống, tăng thêm lợi ích cho cộng đồng địa phương và môi trường của khu vực. Cộng đồng địa phương chỉ có thể tham gia vào những công việc vận hành DLST, trên phương diện cung cấp về kiến thức, những kinh nghiệm thực tế, các dịch vụ, các trang thiết bị và các sản phẩm phục vụ khách. Những lợi ích này nhất thiết phải "nặng ký" hơn sự trả giá về môi trường và văn hoá-xã hội nảy sinh từ du lịch mà cộng đồng địa phương phải gánh chịu.

* Thoả mãn nhu cầu về trải nghiệm du lịch cho du khách: Việc thoả mãn những mong muốn của khách tham quan với những kinh nghiệm du lịch lý thú là cần thiết đối với sự tồn tại sống còn lâu dài của ngành DLST, trong đó có một phần quan trọng là sự an toàn cho du khách và phải thoả mãn hoặc vượt quá sự mong đợi của du khách.

1.1.4. Những yêu cầu cơ bản đối với du lịch sinh thái.


Theo Drumm (2002) ( được trích trong Cẩm nang quản lý và phát triển DLST cục kiểm lâm năm 2004), thì những yếu tố dưới đây có vai trò quyết định đối với việc tổ chức thành công hoạt động DLST: [6]

- Ít gây ảnh hưởng tới tài nguyên thiên nhiên của KBTTN và VQG.


- Thu hút sự tham gia của các cá nhân, cộng đồng, khách DLST, các nhà điều hành tour và các cơ quan tổ chức phi chính phủ.

- Tôn trọng văn hóa truyền thống địa phương.


- Tạo thu nhập lâu dài và bình đẳng cho cộng đồng địa phương và cho các bên tham gia khác, bao gồm cả những nhà điều hành tour tư nhân.

- Tạo nguồn tài chính cho công tác bảo tồn của KBTTN.


- Giáo dục những người tham gia về vai trò của họ trong công tác bảo tồn.


1.1.5. Phát triển du lịch sinh thái ở các Vườn Quốc gia Khái niệm Vườn Quốc gia

Vườn quốc gia là một khái niệm đã rất phổ biến trong hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học, hiện nay đang có nhiều khái niện khác nhau như: Tổ chức IUCN đã đưa ra một định nghĩa về VQG [18].

Vườn Quốc gia là một lãnh thổ tương đối rộng trên đất liền hay trên biển mà:


- Ở đó có một hay nhiều hệ sinh thái không bị thay đổi lớn do sự khai khác hay chiếm lĩnh của con người. Các loài thực vật - động vật, các đặc điểm sinh thái, địa mạo và nơi cư trú của các loài, hoặc các cảnh quan thiên nhiên đẹp trong đó là mối quan tâm cho nghiên cứu khoa học, giáo dục và giải trí.

- Ở đó ban quản lý thực hiện các biện pháp ngăn chặn hoặc loại bỏ càng nhanh càng tốt sự khai thác hoặc chiếm lĩnh và tăng cường sự tôn trọng những đặc trưng về sinh thái, hình thái học và cảnh quan.

- Ở đó cho phép các hoạt động khách du lịch đến thăm, dưới những điều kiện đặc biệt, cho các mục đích nghiên cứu, giáo dục, giải trí và lòng ngưỡng mộ.

Vườn quốc gia ở việt nam được hiểu theo khoản 1 điều 13 quy chế quản lý rừng ban hành theo quyết định 186/2006 của thủ tướng chính phủ. [3]

Vườn quốc gia là khu vực tự nhiên trên đất liền hoặc ở vùng đất ngập nước, hải đảo, có diện tích đủ lớn được xác lập để bảo tồn một hay nhiều hệ sinh thái đặc trưng


hoặc đại diện không bị tác động hay chỉ bị tác động rất ít từ bên ngoài; bảo tồn các loài sinh vật đặc hữu hoặc đang nguy cấp.

Vườn quốc gia được quản lý, sử dụng chủ yếu phục vụ cho việc bảo tồn rừng và hệ sinh thái rừng, nghiên cứu khoa học, giáo dục môi trường và du lịch sinh thái.

Như vậy ở các Vườn quốc gia chính là mảnh đất màu mở cho các hoạt động du lịch sinh thái.

1.1.6. Thực trạng phát triển Du lịch sinh thái


a. Thực trạng phát triển du lịch sinh thái trên thế giới


Du lịch sinh thái đang dấy lên trong giới lữ hành và bảo tồn ngày một tăng, nguồn gốc của nó giống như sự tiến hóa hơn là một cuộc cách mạng. Những du khách lũ lượt kéo đến Vườn quốc gia Yellowstone và Yasemite cách đây hàng mấy thế kỷ chính là những khách du lịch sinh thái đầu tiên. Đến thế kỷ 20 đã chứng kiến sự thay đổi đầy kịch tính và liên tục của lữ hành thiên nhiên; với những trò chơi gây được sự quan tâm như: Săn Thú, Câu Cá... cho đến thời đoạn ngày nay khách du lịch sinh thái thực sự đã có những hiểu biết hơn và phát triển ở mức cao hơn. [8] Hiện nay nhiều quốc gia phát triển Du lịch sinh thái trở thành một nghành công nghiệp chính đem lại nguồn thu quan trọng cho đất nước điển hình như: Một số nước châu phi; Nam Phi, Tanzania,.. và một số quốc gia khác như; Nê Pan, Úc, Thái Lan, ...

Kinh nghiệm hoạt động DLST ở các Vườn Quốc gia.


* DLST ở VQG Galapagos [12]


Vườn Quốc gia Galapagos ở Equado không chỉ là một VQG mà còn là một di sản thế giới, một khu dự trữ sinh quyển, và giờ đây còn là một khu dự trữ sinh thái biển. Về mặt vị trí thì VQG Galapagos nằm tách khỏi lục địa, Có môi trường phù hợp cho các loài sinh vật thích nghi như Rùa, Kỳ Đà, Chim Sẻ, Xương Rồng khổng lồ và họ hàng hướng dương, Chim cốc không bay, Chim bói cá và còn rất nhiều giống động


thực vật khác... Những loài này mang những thông tin không gì sánh được trên thế giới về quá khứ và tương lai.

Galapagos có lẽ là một trong những nơi thuận lợi nhất trên thế giới để nghiên cứu về tiến hóa của hệ sinh thái. Được thưởng thức những quang cảnh đại dương, ven biển và đất liền. Nơi động vật hoang dã đã tiến hóa và như không có chút sợ hãi nào đối với con người đây chính là một cảm giác thật khó so sánh.

Khác với các VQG khác ở Equado và các nước Châu Mỹ la tinh khác, nơi có thể có người sống hợp pháp hoặc không hợp pháp trong phạm vi được bảo vệ, người dân ở Galapagos không được phép sống trong VQG. Họ tập trung ở khoảng 4% diện tích của quần đảo trên đất thuộc sở hữu tư nhân. Hầu hết khách tham quan từ đất liền đi bằng máy bay đến các đảo, sau đó đi thăm thú bằng các tua du lịch được thiết kế sẵn.

Sau mười năm đầu kể từ khi đón khách, chiến lược quản lý và hỗ trợ quản lý đầu tiên của VQG được thực hiện tương đối suôn sẻ với một số lượng nhỏ du khách và phát triển liên tục trong những năm 1970. Từ ban đầu có 7000 khách tham quan đến năm 1973 là 12000 khách, năm 1981 là 25000 khách và năm 1989 đã thu hút gần 42000 khách. Sau đó, sự sa sút của nền kinh tế khu vực đã dẫn đến việc giảm ngân sách của dịch vụ DLST ở VQG Galapagos. Nhưng với những biện pháp hữu hiệu cộng với sự hỗ trợ nỗ lực của các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới, Quỹ môi trường toàn cầu.. đã làm vực lại sự phát triển DLST ở đây.

Chuyến du lịch truyền thống ở đây là một chuyến đi chơi biển bằng tàu thủy kéo dài một tuần đến các điểm du lịch khác nhau. Những năm gần đây Galapagos phải tiếp ngày càng tăng lượng khách tới thăm, Các nhà điều hành đã rất linh hoạt ngoài tour Du lịch truyền thống thì họ đã tổ chức các tour ngắn ngày hơn, thậm chí là 1 ngày, để nhằm phù hợp hơn với các đối tượng khách khác nhau. Nhìn chung các hoạt động ở đây đã đem lại lợi nhuận cao cho VQG Galapagos và cộng đồng người dân ở đây. Hiện có 6 Du thuyền, bốn tàu thủy (chở được từ 34 người đến 90 người), 75 thuyền máy lớn


và 10 thuyên buồn... những năm gần đây nhu cầu cấp phép hoạt động thuyền du lịch ở đây là rất lớn, đã có nhiều bất cập xảy ra trong hoạt động này song, Ban quản lý VQG và chính phủ Equador đã có những điều chỉnh kịp thời nhằm hạn chế phù hợp số lượng thuyền hoạt động. Với nguồn thu 40 $ lệ phí vào VQG và nguồn phí từ các hoạt động của các nhà điều hành du lịch được dùng để phục vụ cho các hoạt động của Vườn và hỗ trợ các hoạt động bảo tồn ở các khu bảo tồn khác ở Equador, đây là những đóng góp đáng kể mà không phải các VQG khác trên thế giới làm được. Hiện nay thì Galapagos đang được coi là mỏ vàng của Equador .

Một số kinh nghiệm của việc phát triển DLST ở VQG Galapagos:


- Các hoạt động dịch vụ VQG đã được tổ chức tập huấn cẩn thận và được cấp chứng nhận cho các hướng dẫn viên, các hướng dẫn viên này sẽ đi cùng với tất cả các đoàn tham quan, vừa đóng vai trò hướng dẫn vừa kiểm soát các hoạt động không tốt cho môi trường của khách du lịch.

- Phương tiện tham quan là đa phần bằng thuyền, các dịch vụ ăn nghỉ đều ở trên thuyền phần nào đã giảm tác động vào các khu vực tham quan của khách. Khu tham quan thường ngắn và có ranh giới rõ ràng. Các hành trình của chuyến tham quan đều được cố định và không được vào các khu vực chưa bị xâm nhập của các loài nhập nội.

- Các phương tiện hoạt động dịch vụ ở VQG đều kiểm soát và cấp phép khá chặt

chẽ.


- Các hoạt động của VQG đều được phân vùng quản lý và chiến lược quản lý

các hoạt động DLST.


* DLST ở KBT Annapurna [1]


KBT Annapurna, Nê Pan được bao bọc bởi các ngọn núi thuộc loại cao nhất thế giới. Là một khu vực có các điều kiện tự nhiên rất khác biệt. Do các điều kiện khí hậu khác nhau, từ cận nhiệt đới tới ôn đới, sa mạc và khô khu vực này được thiên nhiên ban

Xem tất cả 149 trang.

Ngày đăng: 26/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí