Ảnh hưởng của vốn xã hội đến lợi ích của người dân địa phương trong phát triển du lịch sinh thái tại các vườn quốc gia Đồng bằng sông Hồng và Duyên Hải Đông Bắc - 3


thiệu về lý thuyết VXH (Nguyễn Quang A, 2003; Trần Hữu Dũng, 2003; Trần Hữu Quang, 2006; Lê Ngọc Hùng, 2008; Hoàng Bá Thịnh, 2009; Nguyễn Thị Ánh Tuyết, Bùi Thị Phương, 2014…) và (ii) Nghiên cứu vai trò, ảnh hưởng của VXH đối với nền KT - XH (Đặng Nguyên Anh, 1998; Nguyễn Quý Thanh, 2005; Turner and Nguyen, 2005; Thomese và Nguyễn Tuấn Anh, 2007; Mai Văn Hai và cộng sự, 2007; Bế Quỳnh Nga và cộng sự, 2008; Đặng Thanh Trúc và cộng sự, 2008; Baughn and et al., 2011; Nguyễn Tuấn Anh, 2012; Nguyễn Vũ Quỳnh Anh, 2013…). Các nghiên cứu ở chủ đề thứ hai chủ yếu khám phá các ảnh hưởng của VXH tới sự phát triển của doanh nghiệp hoặc các vấn đề như việc làm, nông thôn, đô thị trong bối cảnh hội nhập. Qua đó, khẳng định sự hấp dẫn của việc nghiên cứu về VXH nằm ở chỗ nó cho thấy tầm quan trọng lòng tin, sự trao đổi, chia sẻ và tương trợ lẫn nhau có thể giải quyết các vấn đề trong xã hội/cộng đồng. Hai trong số ít các nghiên cứu có liên quan đến việc phân tích, đánh giá MQH giữa VXH và phát triển DLST là nghiên cứu của Nguyen (2007) và Assist Social Capital (ASC, 2016). Các công trình này đã chỉ ra vai trò quan trọng của VXH đối với công tác bảo tồn, quản lý tài nguyên trong bối cảnh VQG Cát Tiên và Cát Bà của Việt Nam. Trong đó, kết quả khảo sát từ 270 hộ gia đình ở VQG Cát Tiên của Nguyen (2007) cho thấy: lòng tin, sự trao đổi và chia sẻ, sự hợp tác và liên kết có ảnh hưởng tích cực đến nhận thức của NDĐP trong BVMT, đồng thời góp phần gia tăng cho họ quyền được tiếp cận, khai thác tài nguyên. Nghiên cứu trường hợp tại VQG Cát Bà của ASC (2016) đã chỉ ra: các yếu tố của VXH (lòng tin, sự trao đổi, chia sẻ, mạng lưới xã hội) giúp trao cho NDĐP các cơ hội học tập, nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu và mở rộng thu hút đầu tư từ bên ngoài nhằm thúc đẩy sinh kế bền vững. Nguyen (2007) cũng đã gợi ý hướng nghiên cứu nên được tiếp tục ở các VQG khác và khám phá thêm mối quan hệ của VXH với các lợi ích khác bên cạnh ý nghĩa ủng hộ bảo tồn và nâng cao vị thế của NDĐP. Vì thế, nghiên cứu các mức độ ảnh hưởng của của VXH đến tổng thể các lợi ích (chính trị, kinh tế, VH - XH và môi trường) của NDĐP trong phát triển DLST tại các VQG ở Việt Nam là một hướng nghiên cứu tương đối mới cả về nội dung, phương pháp và bối cảnh nghiên cứu.

Những căn cứ lý luận nói trên cho thấy sự cần thiết của việc đi sâu nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của các yếu tố/thành phần của VXH đến các lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST nhằm làm sáng tỏ hơn những khoảng trống còn thiếu hụt và góp phần làm phong phú hơn lý thuyết về VXH trong mối quan hệ với các lợi ích của NDĐP khi tham gia phát triển DLST. Để giải quyết các mục tiêu và đạt được mục đích khi nghiên cứu đề tài, tác giả lựa chọn thăm dò, khảo sát, kiểm định và phân tích đối tượng nghiên cứu tại bối cảnh các VQG ở vùng Đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc (ĐBSH&DHĐB).


1.1.2. Về mặt thực tiễn

Ngay những năm 1990, với sự quan tâm đầu tư của các tổ chức phi chính phủ (Non governmental organizations - NGOs) và cơ quản quản lý du lịch ở một số quốc gia, đặc biệt ở những nước có ngành du lịch đã phát triển hoặc đang phát triển nhưng phụ thuộc nhiều vào sự bền vững của các hệ sinh thái (HST) tự nhiên, hoạt động DLST diễn ra khá sôi động trong thực tiễn. Trong giai đoạn 1998 - 2003, Ngân hàng thế giới đã tài trợ 32/55 dự án đầu tư cho các KBTTN và các điểm DLST ở châu Phi (World Bank, 2003). Thành lập từ năm 1991, Tổ chức DLST Úc (Ecotourism Australia) đã thu hút hơn 500 thành viên tham gia với doanh thu trung bình 1,12 tỷ USD/năm (Murray and Hillman, 2015). Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) đã đầu tư 105 dự án với kinh phí 2 tỷ USD cho hoạt động DLST có sự tham gia của cộng đồng (Honey, 1999). Tại Bulgari hàng loạt các dự án DLST được triển khai với số tiền đầu tư 50.000 - 250.000 EUR/dự án (Al-mughrabi and Abeer, 2007). … Các tổ chức/dự án này đã đóng góp đáng kể cho công tác bảo tồn tài nguyên, khôi phục các giá trị văn hóa truyền thống, tăng thêm thu nhập, cải thiện cơ sở hạ tầng và nâng cao nhận thức BVMT cho NDĐP. Ngoài ra, qua nghiên cứu trường hợp (Honey, 1999; Scheyvens, 1999; Sutton, 1999; Hillel and Oliveira, 2000; Shah and Gupta, 2000; Stronza, 2000; Wood, 2002; Buckley, 2003; Babar and Khanal, 2007…) về các mô hình thành công trong phát triển DLST ở nhiều quốc gia trên thế giới, có thể thấy hiệu quả phát triển DLST trên thực tiễn dựa trên những kinh nghiệm sau:

Thứ nhất, xây dựng, ban hành chiến lược/chính sách DLST quốc gia và quy hoạch chi tiết cho các điểm/khu DLST trọng điểm nhằm tạo cơ chế thuận lợi và có những chỉ dẫn, định hướng cụ thể trong việc khuyến khích đầu tư, thúc đẩy phát triển DLST (Brazil, Kenya, Nam Phi, Bulgari, Nhật Bản, Thái Lan, Malaysia, Úc…).

Thứ hai, áp dụng các mô hình quản lý kinh doanh DLST gắn với sự tham gia của NDĐP và khuyến khích nâng cao vị thế cho họ: mô hình quản lý thông qua trung tâm điều phối khách và NDĐP được luân phiên cung cấp dịch vụ cho khách du lịch (Toledo - Belize, Infierno - Peru); mô hình luân phiên thay đổi vị trí “nhân viên” và “quản lý”, bình đẳng trao cơ hội “làm chủ” cho cộng đồng (Capirona - Ecuador); mô hình NDĐP được tự chủ sở hữu và quản lý các hoạt động kinh doanh DLST (VQG Mutawintji - Úc)…. Ngoài ra, các dự án trao quyền, phát huy vai trò của phụ nữ trong việc tham gia quản lý, hưởng lợi từ phát triển DLST giúp họ có một cuộc sống bình đẳng và tốt đẹp hơn (Langtang - Nepal và Ngwesi - Kenya...).

Thứ ba, có cơ chế phân bổ lợi nhuận kinh doanh cho NDĐP trực tiếp tham gia phát triển DLST, phần còn lại đưa vào quỹ phúc lợi cho cộng đồng phục vụ nâng cấp


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 250 trang tài liệu này.

mạng lưới giao thông, y tế, giáo dục, quảng bá du lịch (Brazil, Belize, Ecuador, Costa Rica, Kenya, Nhật Bản, Indonesia…).

Thứ tư, tăng cường các hoạt động giáo dục BVMT, bảo tồn tài nguyên trong khai thác DLST bằng các biện pháp cụ thể như: yêu cầu các tour DLST có diễn giảng, chỉ dẫn về BVMT; khuyến khích sử dụng các loại hình lưu trú gần gũi với thiên nhiên (camping, bungalow, cabana, ecolodge…), các phương tiện vận chuyển thân thiện với môi trường (Đức, Mỹ, Costa Rica, Monaco…); tôn trọng nguyên tắc sức chứa và đặt giới hạn số lượng khách phù hợp trong mỗi tour du lịch (Brazil, Belize…); áp dụng phí phạt với những bên tham gia gây thiệt hại tới môi trường (Đức, Kenya…).

Ảnh hưởng của vốn xã hội đến lợi ích của người dân địa phương trong phát triển du lịch sinh thái tại các vườn quốc gia Đồng bằng sông Hồng và Duyên Hải Đông Bắc - 3

Thứ năm, khuyến khích các sáng kiến trong phát triển DLST và tạo động lực cho các bên tham gia qua việc ban hành tiêu chí đánh giá và công nhận các danh hiệu như “Giải thưởng DLST”, “Nhà lãnh đạo xanh”, “Lá cờ xanh sinh thái”; trao các chứng nhận như: “Sản phẩm DLST”, “Nhãn sinh thái”, “Khách sạn xanh”, “Hướng dẫn viên DLST”; ban hành “Sổ tay phát triển DLST” cung cấp kiến thức, hướng dẫn phát triển DLST (Úc, Canada, Đức, Monaco, Costa Rica, Nhật Bản, Đức…).

Thứ sáu, thành lập Hiệp hội DLST quốc gia/địa phương, phát huy vai trò của NGOs nhằm tư vấn, giám sát sự tham gia của các bên liên quan và huy động các dự án đầu tư, tài trợ, hỗ trợ NDĐP tham gia phát triển DLST một cách hiệu quả (Canada, Belize, Nga, Nhật Bản, Thái Lan, Indonesia, Úc, Nam Phi...).

Mặc dù ra đời sau nhưng với những ưu điểm của một loại hình du lịch có trách nhiệm, DLST đã được tổ chức UNWTO đánh giá là loại hình du lịch có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất với 10 - 15%/năm (Sharpley, 2006). Sức hút của loại hình DLST cho thấy sự ưu việt trong việc mở ra triển vọng liên kết bảo tồn và sinh kế địa phương, đồng thời đạt được cả hai mục tiêu trên cơ sở PTBV. Thực tiễn phát triển DLST ở các quốc gia trên thế giới đã chứng minh, sự thành công phát triển DLST là thấy được vai trò của NDĐP, trao quyền cho họ tham gia và hưởng lợi trực tiếp. Ngoài ra, việc tận dụng nguồn VXH từ các mối quan hệ hợp tác trong và ngoài cộng đồng, đặc biệt là phát huy vai trò của các NGOs, khai thác hiệu quả hơn nguồn VXH trong việc thu hút các dự án đầu tư (không nhằm mục đích lợi nhuận) sẽ giúp giảm thiểu được các tác động tiêu cực đến môi trường, đảm bảo sinh kế bền vững cho NDĐP.

Ở Việt Nam, xu hướng phát triển DLST cũng đang thịnh hành tại các VQG, KBTTN gắn với cơ chế khuyến khích khai thác tài nguyên rừng đặc dụng: “Chủ trương cho thuê môi trường rừng/sử dụng quyền sử dụng đất và giá trị kinh tế của tài nguyên ĐDSH và cảnh quan rừng để liên doanh, liên kết đầu tư kinh doanh DLST… Tạo điều kiện cho các hộ gia đình, cá nhân sống trong rừng tham gia các dịch vụ du


lịch” (Thủ tướng Chính phủ, 2006). Việc khai thác phát triển DLST ở địa bàn các rừng đặc dụng gắn với sự tham gia của NDĐP được triển khai từ những năm 1990 (VQG Cúc Phương đi tiên phong mở đường cho hướng phát triển này), ngày càng được mở rộng và đóng góp quan trọng cho sự phát triển bền vững của du lịch Việt Nam.

Theo Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN, 2008), Việt Nam có 30 VQG, 164 KBTTN, 45 khu bảo vệ cảnh quan với các HST và giá trị ĐDSH tiêu biểu. Ngoài ra, Việt Nam còn có 9 khu dự trữ sinh quyển và có 2 di sản thiên nhiên thế giới đã được UNESCO công nhận. Các khu rừng đặc dụng này quy tụ nhiều HST điển hình như: HST rừng á nhiệt đới, rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới, rừng trên núi đá vôi, rừng trên đảo, rừng khộp, rừng ngập mặn..., xung quanh (vùng đệm) của các địa bàn này là nơi cư trú của không ít các dân tộc với nếp sống văn hóa khá đặc trưng là tiền đề thuận lợi để tổ chức các hoạt động DLST. Trong Quy hoạch tổng thể du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, DLST được xác định là “loại hình du lịch được ưu tiên đẩy mạnh phát triển”. Một số chính sách có liên quan đến phát triển DLST cũng được ban hành như “Quy chế quản lý (QCQL) rừng đặc dụng” (Thủ tướng Chính phủ, 2006); “Quy chế quản lý các hoạt động DLST tại các VQG, KBTTN” (Bộ trưởng Bộ NN&PTNT, 2007)... Tổng cục Du lịch Việt Nam cũng đã giới thiệu “Sổ tay hướng dẫn phát triển DLST tại Việt Nam” (2013), tài liệu cung cấp những chỉ dẫn cụ thể cho việc áp dụng phát triển DLST trong thực tiễn. Tuy nhiên, các cơ chế, chính sách và các công cụ này khi áp dụng vào thực tiễn còn nhiều bất cập, việc tổ chức quản lý các hoạt động phát triển DLST còn chưa chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; khả năng thu hút khách của loại hình DLST còn hạn chế với 5 - 8% khách quốc tế/năm (Lê Văn Minh, 2016). Điều đó cho thấy, đã đến lúc du lịch Việt Nam muốn thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và đảm bảo PTBV thì trước hết với những loại hình đã được xác định ưu tiên phát triển như DLST cần có một chiến lược, quy hoạch tổng thể; đồng thời có các kế hoạch cụ thể để áp dụng phù hợp trong từng bối cảnh. Ngoài ra, việc nghiên cứu phát hiện các yếu tố có ảnh hưởng đến lợi ích của NDĐP và phát huy vai trò của các nguồn lực sẽ cung cấp thêm những giải pháp gợi ý cho sự thành công trong kinh doanh DLST trên thực tiễn.

Vùng ĐBSH&DHĐB trong "Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030" (Thủ tướng Chính phủ, 2013a) gồm 11 tỉnh, thành phố: Thành phố Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Quảng Ninh - là cửa ngõ hướng ra vịnh Bắc Bộ và có nguồn tài nguyên phong phú. Là vùng duy nhất ở Việt Nam có khí hậu 4 mùa tương đối rõ nét, lại nằm ở vị trí giao lưu của nhiều luồng


sinh vật lớn trên thế giới như: luồng thực vật Vân Nam - Himalaya; Hoa Nam; Ấn Độ

- Malaysia nên giới sinh vật ở đây rất đa dạng. Đặc điểm tự nhiên đã tạo cho vùng có hệ thống các VQG, KBTTN tập trung với mật độ dày đặc. Các VQG của vùng có HST đa dạng và bảo tồn được nhiều loại sinh vật điển hình của vùng nhiệt đới, cận nhiệt và ôn đới. Vùng đệm của các VQG cũng là nơi sinh sống của nhiều dân tộc tiêu biểu với lối sống đặc trưng riêng của văn hóa Mường, Dao, Tày, Sán Dìu… Đây là những tiền đề thuận lợi để vùng đầu phát triển du lịch thu hút du khách trong và ngoài nước với các sản phẩm du lịch đã được xác định trong “Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch vùng ĐBSH&DHĐB đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” (Thủ tướng Chính phủ, 2013b) bao gồm: du lịch biển đảo, du lịch văn hóa, du lịch tâm linh, du lịch cộng đồng, DLST… Trong đó, DLST là một trong những thế mạnh nổi bật của vùng bởi hoạt động DLST và đang được khai thác ở cả khu vực miền núi, đồng bằng, biển đảo.

Qua khảo sát thăm dò sơ bộ, các VQG của vùng ĐBSH&DHĐB có điều kiện thuận lợi để lôi cuốn NDĐP tham gia phát triển DLST dựa trên tiềm năng và các nguồn vốn sẵn có. Ngoài thế mạnh về tài nguyên tự nhiên và bề dày văn hóa truyền thống, nguồn VXH trong các cộng đồng tương đối phong phú bởi nhìn chung khi sinh sống ở vùng đệm của các VQG, NDĐP tuân thủ khá tốt các chuẩn mực và quy tắc chung; có sự gắn kết, tin tưởng lẫn nhau và tích cực tham gia phát triển DLST. Nhận thức được lợi ích của phát triển DLST trong việc nâng cao thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống, nhiều hộ gia đình trong các VQG có mong muốn được đầu tư phát triển DLST nhưng thách thức của họ khi triển khai trong thực tế là khả năng thu hút khách du lịch còn hạn chế. Các địa bàn khai thác phát triển DLST có sự tham gia của NDĐP hiện nay ở các VQG Cúc Phương, Ba Vì và Cát Bà, Xuân Thủy, Tam Đảo và Bái Tử Long. Ngoài làm việc trong các bộ phận ở các VQG, NDĐP còn tổ chức kinh doanh ăn uống, lưu trú, phục vụ homestay tại gia đình. Trên thực tế, NDĐP tham gia làm DLST trong các VQG này chưa nhiều, lượng khách đến còn ít so với mong muốn mở rộng đầu tư kinh doanh của NDĐP nên lợi ích dành cho họ khi tham gia phát triển DLST còn khiêm tốn. Bên cạnh đó, vai trò của các NGOs trong các VQG khá mờ nhạt, một vài dự án do NGOs đầu tư chủ yếu hỗ trợ công tác bảo tồn thiên nhiên.

Hiện trạng khai thác phát triển DLST và những lợi ích mang lại cho NDĐP trong các VQG ở vùng ĐBSH&DHĐB còn chưa tương xứng với tiềm năng về nguồn tài nguyên và lợi thế về những cơ chế chính sách đặc thù khuyến khích phát triển DLST trong các VQG đã được ban hành. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, một số bất cập qua thăm dò sơ bộ có thể thấy là do chế quản lý nhà nước ở các VQG còn chậm đổi mới, chất lượng dịch vụ và cơ sở vật chất phục vụ du lịch còn hạn


chế, công tác quảng bá, xúc tiến phát triển DLST ở các VQG chưa được chú trọng nên hiệu quả thu hút khách chưa cao, thu nhập đại bộ phận NDĐP tham gia làm du lịch còn thấp… Để khuyến khích phát triển DLST, một số VQG đã có cơ chế cho phép người NDĐP tham gia đầu tư phát triển DLST trong khuôn khổ quy định của VQG. Tuy nhiên, các chính sách này vẫn chưa được triển khai đồng bộ và chưa phát huy hết hiệu quả trong thực tiễn. Vậy bên cạnh những rào cản nói trên, còn nguyên nhân nào khác dẫn đến phát triển DLST chưa mang lại lợi ích tương xứng cho NDĐP? Sự thiếu quan tâm đầu tư đúng mức cho các mối quan hệ hợp tác, liên kết trong và ngoài cộng đồng, sự mờ nhạt trong vai trò của các NGOs, việc chưa tận dụng hiệu quả trong khai thác các nguồn VXH… có phải là những nhân tố góp phần ảnh hưởng đến thực tế nói trên? Đây là những vấn đề cần được tiếp tục quan tâm nghiên cứu để khám phá được bản chất, kiểm định được tính xác thực của các MQH này trong bối cảnh các VQG.

Xuất phát từ những thiếu hụt của khoảng trống lý luận trong các nghiên cứu về MQH giữa VXH và lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST cũng như căn cứ vào tình hình thực tế trong phát triển DLST ở Việt Nam nói chung và các VQG vùng ĐBSH&DHĐB nói riêng, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Ảnh hưởng của vốn xã hội đến lợi ích của người dân địa phương trong phát triển du lịch sinh thái tại các vườn quốc gia vùng Đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc” nhằm góp phần làm phong phú hơn những tri thức lý luận về VXH, lợi ích của NDĐP và MQH ảnh hưởng của VXH đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST. Đồng thời, lấy kết quả nghiên cứu làm căn cứ để đề xuất một số hàm ý chính sách, gợi mở thêm các giải pháp phát triển DLST trong thực tiễn tại địa bàn các VQG vùng ĐBSH&DHĐB.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu

1.2.1. Mục tiêu tổng quát

Mục tiêu tổng quát (mục đích nghiên cứu) của đề tài là: Phân tích và kiểm định được những ảnh hưởng của VXH đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST tại các VQG vùng ĐBSH&DHĐB. Từ đó, đề xuất một số giải pháp và khuyến nghị nhằm thúc đẩy phát triển DLST nói chung và gia tăng lợi ích cho NDĐP nói riêng thông qua việc tăng cường VXH cho cộng đồng.

1.2.2. Mục tiêu cụ thể

Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài sẽ giải quyết các mục tiêu cụ thể sau:

(1) Xác định được các thành phần của VXH có ảnh hưởng đến các lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST tại các VQG. Từ đó, xây dựng được khung lý thuyết (mô hình) và các giả thuyết nghiên cứu của đề tài.


(2) Phát hiện, kiểm định và phân tích được mức độ ảnh hưởng của các thành phần khác nhau thuộc VXH đến các lợi ích (chính trị, kinh tế, VH - XH và môi trường) của NDĐP trong phát triển DLST tại các VQG vùng ĐBSH&DHĐB.

(3) Phân tích được mức độ ảnh hưởng của các thành phần thuộc biến kiểm soát nhân khẩu học (NKH) đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST tại các VQG vùng ĐBSH&DHĐB.

(4) Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tìm ra được những giải pháp và đề xuất khuyến nghị nhằm góp phần gia tăng VXH và nâng cao lợi ích cho NDĐP trong phát triển DLST tại các VQG vùng ĐBSH&DHĐB.

1.3. Câu hỏi nghiên cứu

Để giải quyết được các mục tiêu nghiên cứu cụ thể, đề tài cần trả lời được các câu hỏi nghiên cứu sau:

Câu hỏi 1: Có những yếu tố/thành phần nào của VXH ảnh hưởng đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST? Ngoài những yếu tố đã nghiên cứu, có “yếu tố mới” nào thuộc VXH ảnh hưởng đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST ở bối cảnh các VQG không?

Câu hỏi 2: Các yếu tố khác nhau của VXH có mức độ ảnh hưởng khác nhau như thế nào đến các lợi ích (chính trị, kinh tế, VH - XH và môi trường) của NDĐP trong phát triển DLST tại các VQG vùng ĐBSH&DHĐB?

Câu hỏi 3: Những ảnh hưởng của VXH đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST có sự khác biệt giữa các VQG trong vùng ĐBSH&DHĐB không? Nếu có thì mức độ khác biệt này ở mỗi VQG cụ thể như thế nào?

Câu hỏi 4: Những yếu tố nào của biến kiểm soát (NKH) có ảnh hưởng đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST ở các VQG vùng ĐBSH&DHĐB? Mức độ ảnh hưởng, chiều tác động của các yếu tố này có khác nhau không?

Câu hỏi 5: Cần phát huy và gia tăng những yếu tố nào của VXH để giúp NDĐP

nâng cao các lợi ích của họ trong phát triển DLST ở các VQG vùng ĐBSH&DHĐB?

1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Ðối tuợng nghiên cứu: Những ảnh hưởng của VXH đến các lợi ích của NDĐP

trong phát triển DLST.

- Khách thể nghiên cứu: NDĐP (local people) tham gia phát triển DLST trong các VQG ở vùng ĐBSH&DHĐB.


1.4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Nghiên cứu tập trung tìm hiểu, khám phá, kiểm định, phân tích và bình luận về những ảnh hưởng của các yếu tố thuộc VXH đến các lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST.

- Về thời gian: Các dữ liệu thứ cấp phục vụ nghiên cứu nội dung chính của đề tài liên quan đến VXH và ảnh hưởng của VXH đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST phần lớn được lấy trong giai đoạn 2013 - 2017, thời gian thu thập dữ liệu sơ cấp (phỏng vấn, điều tra khảo sát) chủ yếu diễn ra trong năm 2016, 2017 và đầu năm 2018.

- Về không gian: Đề tài tập trung khảo sát, nghiên cứu ở phạm vi lãnh thổ có sự tham gia, hưởng lợi của NDĐP trong phát triển DLST tại VQG Ba Vì, Cát Bà và Cúc Phương (thuộc vùng ĐBSH&DHĐB). Lý do đề tài tập trung nghiên cứu ở phạm vi này được trình bày tại mục 4.1 (mô tả về đặc điểm bối cảnh của mẫu nghiên cứu).

1.5. Kết cấu của luận án

Ngoài các phần lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và các phụ lục, đề tài được kết cấu gồm 05 chương:

- Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu

- Chương 2: Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu về ảnh hưởng của vốn xã hội đến lợi ích của người dân địa phương trong phát triển du lịch sinh thái

- Chương 3: Phương pháp nghiên cứu

- Chương 4: Kết quả nghiên cứu

- Chương 5: Bàn luận kết quả nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/03/2023