Mức Độ Ảnh Hưởng Của Các Yếu Tố Nhân Khẩu Học Đối Với Lợi Ích Của


thực hiện các quy định trong cộng đồng; đặc biệt là trong việc ủng hộ công tác bảo tồn và BVMT ở các VQG. Việc thực hiện tốt các “chuẩn mực xã hội” và “chuẩn mực quy tắc trong các cộng đồng cũng cho thấy họ hiếm khi xảy ra các xung đột/mẫu thuẫn kể cả trong khai thác nguồn tài nguyên du lịch; họ có thái độ tôn trọng và tuân theo luật pháp của nhà nước nói chung cũng như thực hiện khá tốt các quy định của cộng đồng và VQG. Nhận thức về việc tuân thủ các quy tắc của NDĐP trong các VQG liên quan chặt chẽ với việc đi rừng, không khai thác rừng trái phép và bảo tồn những giá trị văn hóa bản địa trong cộng đồng.

Khi các VQG thực hiện QCQL hoạt động DLST, việc cho thuê môi trường rừng đối với các doanh nghiệp kinh doanh làm du lịch được yêu cầu cam kết tuân theo những quy định nghiêm ngặt về bảo tồn tài nguyên và BVMT cảnh quan cho cộng đồng. Các chủ doanh nghiệp cũng yêu cầu nhân viên và khách du lịch phải tuân theo các nguyên tắc, giới hạn theo những quy định đã cam kết. Một số doanh nghiệp còn có các chương trình phát động phong trào giáo dục môi trường qua du lịch. Vì vậy, sự phát triển hàng loạt của các khu du lịch ở Ba Vì đã góp phần cải thiện cơ bản ý thức của những người dân khi tham gia làm du lịch trong việc ủng hộ và có thể có những hành động thân thiện hơn với môi trường. Cơ chế ưu tiên người dân tham gia làm du lịch là một cơ chế điển hình ở VQG Cúc Phương, VQG không chủ trương cho thuê môi trường rừng làm du lịch để ưu tiên con em địa phương vào làm theo cơ chế quản lý nhà nước. Đặc điểm này cũng góp phần làm cho người dân thấy được vai trò và trách nhiệm của mình trong việc bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị tài nguyên tự nhiên cũng như văn hóa. VQG Cát Bà chưa có nhiều hoạt động trong việc cho thuê môi trường rừng nhưng việc khuyến khích phát triển du lịch gắn liền với việc thu hút, ủng hộ một số dự án vào cải thiện môi trường biển đảo cũng góp phần lan tỏa ý nghĩa giúp người dân ủng hộ các chính sách BVMT.

5.1.4. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố nhân khẩu học đối với lợi ích của

người dân địa phương trong phát triển du lịch sinh thái

Yếu tố thu nhập có mức độ kiểm soát cao nhất đối với các lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST (2,2%) và còn lại yếu tố dân tộc và công việc chính mỗi yếu tố ảnh hưởng 0,1%. Kết quả này cũng đồng nhất với các kết quả nghiên cứu trước (John, 2005; Liu et al., 2014), khi thu nhập càng cao thì người dân càng tham gia phát triển DLST và gia tăng các lợi ích KT - XH trong phát triển DLST.

Trong nghiên cứu này, yếu tố thu nhập ảnh hưởng rõ rệt nhất đến lợi ích kinh tế và chính trị (với hệ số Beta chuẩn hóa là 0.209 và 0.135), điều đó chứng tỏ yếu tố thu nhập có MQH thuận chiều với các lợi ích về mặt kinh tế (tăng thu nhập, thúc đẩy sản xuất hàng hóa địa phương) và các lợi ích chính trị (nâng cao tiếng nói, vị thế trong


cộng đồng và quyền được tiếp cận tài nguyên, ra quyết định) của NDĐP. Tuy nhiên, yếu tố thu nhập lại có ảnh hưởng ngược chiều với lợi ích về môi trường (hệ số Beta chuẩn hóa -0.191). Như vậy, đồng nghĩa với khi có thu nhập cao (nhóm kinh doanh khu du lịch, nhà hàng, dịch vụ vui chơi giải trí…), chưa hẳn NDĐP đã có ý thức tốt trong việc BVMT.

Yếu tố trình độ học vấn có ảnh hưởng ngược chiều (kiểm soát hạn chế) đối với lợi ích chính trị và lợi ích VH - XH dành cho cộng đồng (với hệ số Beta chuẩn hóa là -

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 250 trang tài liệu này.

.120 và -.187). Đây là một kết quả ngược chiều so với giả thuyết nghiên cứu bởi vì qua khảo sát và phỏng vấn, nhìn chung trình độ học vấn của NDĐP trong các VQG vùng ĐBSH&DHĐB còn thấp (chủ yếu lao động phổ thông) và nó ảnh hưởng đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST, đặc biệt là với các lợi ích nâng cao tiếng nói, địa vị chính trị cho họ cũng như khả năng liên kết, hợp tác phát triển với các MQH đối tác bên ngoài cộng đồng.

Yếu tố dân tộc, có ảnh hưởng kiểm soát đối với lợi ích VH - XH dành cho cộng đồng và lợi ích kinh tế (với hệ số Beta chuẩn hóa tương ứng là 0.113 và 0.165). Yếu tố dân tộc là một biểu hiện rõ nét tạo nên những đặc điểm tương đối khác nhau về VXH trong các cộng đồng ở các VQG Cúc Phương, Ba Vì và Cát Bà. Ở đây có các dân tộc Kinh, Mường, Dao. VQG Cát Bà có 100% dân cư là người Kinh, VQG Cúc Phương có 100% dân cư là người Mường, VQG Ba Vì có cả người Kinh, Mường và Dao. Đặc thù của mỗi dân tộc có những phương thức sản xuất, giá trị văn hóa bản địa và cách làm du lịch tương đối khác nhau tạo nên sức hấp dẫn riêng trong việc thu hút khách du lịch. Điều đó tạo thuận lợi cho các VQG tăng thu, mang lại nhiều lợi ích kinh tế hơn cho cộng đồng. Ngoài ra, những đặc trưng riêng của mỗi cộng đồng và những lợi ích kinh tế mà nó mang lại cũng góp phần thúc đẩy việc phải giữ gìn, bảo tồn, khôi phục và phát huy các giá trị văn hóa, nghệ thuật, làng nghề, lễ hội… truyền thống nên yếu tố dân tộc cũng sẽ có ảnh hưởng kiểm soát thuận chiều đối với lợi ích VH - XH dành cho cộng đồng.

Ảnh hưởng của vốn xã hội đến lợi ích của người dân địa phương trong phát triển du lịch sinh thái tại các vườn quốc gia Đồng bằng sông Hồng và Duyên Hải Đông Bắc - 18

Không đủ kết luận yếu tố độ tuổi, giới tính có ảnh hưởng đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST. Đây là kết quả cũng được ghi nhận trong các nghiên cứu trước bởi thông thường việc phát triển DLST ít chịu ảnh hưởng của yếu tố này và trong bối cảnh nghiên cứu những yếu tố này cũng không có gì “đột biến”.

5.1.5. Bình luận các kết quả nghiên cứu so sánh về ảnh hưởng của vốn xã hội đối với lợi ích của người dân địa phương trong các vườn quốc gia Cúc Phương, Ba Vì và Cát Bà

- Mức độ ảnh hưởng của VXH đối với lợi ích của CĐĐP trong phát triển DLST cao nhất ở VQG Ba Vì (28,8%), thứ hai là VQG Ba Vì (25,1%), thấp nhất ở VQG Cúc


Phương (13,3%). Kết quả này cho thấy hiệu quả rõ rệt của việc áp dụng QCQL các hoạt động DLST ở VQG Ba Vì (khuyến khích cho thuê môi trường rừng và liên kết, liên doanh, ưu tiên người dân tham gia làm du lịch) và liên kết, liên doanh ở VQG Cát Bà góp phần làm gia tăng các yếu tố mạng lưới xã hội, hợp tác và đây cũng là nhóm yếu tố có đóng góp quan trong nhất đối với lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST ở các VQG này.

- Yếu tố lòng tin có ảnh hưởng đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST ở VQG Cúc Phương và VQG Ba Vì. Trong đó, lòng tin ở VQG Cúc Phương cao hơn VQG Ba Vì điều đó thể hiện đặc thù ở VQG Cúc Phương 100% người NDĐP tham gia làm DLST là người Mường (thuần dân tộc), VQG Ba Vì có cả người Mường, Kinh và Dao trong đó tổng số người Mường và Dao gần tương đương với tổng số người Kinh tham gia phát triển DLST (trong tập dữ liệu này). Sự khác biệt trong các nhóm dân tộc cùng với đặc thù phát triển DLST ở mỗi địa bàn có thể là một trong những yếu tố có liên quan đến mức độ lòng tin giữa những NDĐP trong cộng đồng.

- Yếu tố chuẩn mực quy tắc có ảnh hưởng đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST ở VQG Cúc Phương và VQG Cát Bà với mức độ khá ngang bằng nhau. Việc tôn trọng các chuẩn mực quy tắc này ở hai VQG nói trên cho thấy kết quả này phù hợp với thực tế bởi cả hai VQG này đều chú trọng đến việc tuân thủ cao các nguyên tắc bảo tồn. Trong đó VQG Cát Bà nằm trong khu dự trữ sinh quyển thế giới Cát Bà (do UNESCO công nhận) nên theo BQL VQG việc khai thác DLST càng phải đảm bảo chặt chẽ hơn trong việc không làm ảnh hưởng đến bảo tồn nguồn gen quý hiếm cho thế giới. BQL VQG Cúc Phương là VQG cũng nhấn mạnh việc không triển khai cho liên kết, liên doanh và thuê môi trường rừng làm du lịch cũng nhằm đặt mục đích bảo tồn lên hàng đầu.

- Yếu tố chuẩn mực xã hội có ảnh hưởng đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST ở VQG Cúc Phương và VQG Ba Vì. Trong đó, chuẩn mực xã hội ở VQG Cúc Phương cao hơn hẳn so với VQG Ba Vì. Kết quả này cho thấy, ở các VQG có sự tham gia của đồng bào dân tộc ít người thì các yếu tố chuẩn mực xã hội ảnh hưởng khá rõ nét đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST.

- Yếu tố hợp tác và yếu tố mạng lưới xã hội có ảnh hưởng đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST ở VQG Ba Vì và VQG Cát Bà. Trong đó, ảnh hưởng của yếu tố hợp tác ở VQG Ba Vì cao hơn một chút so với VQG Cát Bà còn ảnh hưởng của mạng lưới xã hội ở VQG Ba Vì thấp hơn với VQG Cát Bà. Kết quả này là biểu hiện của việc các VQG Ba Vì và Cát Bà đẩy mạnh chủ trương hợp tác phát triển DLST nhưng về các MQH liên kết mạng lưới xã hội ở VQG Cát Bà cao hơn do vai trò của Hiệp hội kinh doanh Cát Bà và đây cũng là VQG thu hút khá nhiều dự án tham gia hỗ trợ cộng đồng, làm sạch môi trường biển…


- Việc tham gia thực hiện QCQL ở các VQG có ảnh hưởng đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST ở cả 03 VQG. Yếu tố này cao nhất ở VQG Ba Vì, thấp hơn là VQG Cát Bà và VQG Cúc Phương. VQG Cúc Phương mặc dù không liên kết, liên doanh phát triển DLST nhưng lại nhấn mạnh việc khuyến khích, ủng hộ và tạo điều kiện cho NDĐP tham gia làm du lịch nên yếu tố này cũng đã mang lại lợi ích cho NDĐP.

5.2. Một số giải pháp tăng cường vốn xã hội nhằm gia tăng lợi ích của người dân địa phương trong phát triển du lịch sinh thái ở các vườn quốc gia vùng đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc

Căn cứ vào những bằng chứng từ nguồn dữ liệu khảo sát, qua phân tích kết quả nghiên cứu của đề tài chúng ta thấy rằng VXH có vai trò ảnh hưởng rõ rệt đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST trong các VQG vùng ĐBSH&DHĐB (25,9%). Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu không đủ cơ sở để khẳng định yếu tố “trao đổi và chia sẻ” có ảnh hưởng đến các lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST. Các yếu tố còn lại của VXH có mức độ ảnh hưởng khác nhau, theo thứ tự từ cao xuống thấp bao gồm: Mạng lưới xã hội, hợp tác, lòng tin, việc tham gia thực hiện QCQL hoạt động DLST ở các VQG, chuẩn mực xã hội và chuẩn mực quy tắc. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu này, luận án đề xuất một số giải pháp nhằm giúp gia tăng lợi ích phát triển DLST cho NDĐP trong các VQG vùng ĐBSH&DHĐB thông qua việc phát huy nguồn VXH “mạnh” và tăng cường, bồi đắp cho các nguồn VXH “yếu” được dồi dào hơn.

5.2.1. Mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác giữa người dân địa phương và

các bên liên quan khác trong các mạng lưới xã hội bên ngoài cộng đồng

Kết quả nghiên cứu cho thấy yếu tố mạng lưới xã hội có ảnh hưởng tích cực nhất đối với lợi ích của NDĐP khi tham gia phát triển DLST và trực tiếp ảnh hưởng đến các lợi ích chính trị và VH - XH của NDĐP. Bởi vậy, mạng lưới xã hội là yếu tố quan trọng nhất cần được phát huy và tăng cường phát triển cả về số lượng và chất lượng các mối quan hệ.

Trên thực tế, dù qua kiểm định mạng lưới xã hội có ảnh hưởng nhiều nhất đến lợi ích của NDĐP nhưng trên thực tế đây là một yếu tố chưa mạnh ở các VQG vùng ĐBSH&DHĐB bởi mối quan hệ hợp tác, liên kết với các bên tham gia khác trong và ngoài cộng đồng còn khá mờ nhạt. NDĐP trong các cộng đồng đã có sự hợp tác, liên kết với nhau để làm du lịch nhưng chưa thu hút được nhiều sự quan tâm của NGOs, các cơ quan/tổ chức/các dự án hỗ trợ, đầu tư cho cộng đồng. Điều đó cho thấy, nếu phát huy sức mạnh của yếu tố mạng lưới xã hội thì hiệu quả gia tăng lợi ích cho NDĐP sẽ càng rõ rệt hơn. Từ bài học kinh nghiệm của các quốc gia Mexico (Sawatsky,


2003), Thái Lan (Pongponrat and Chantradoan, 2012; Thammajinda, 2013), Ecuador (Marcinek and Hunt, 2015), Nam Phi (Musavengane (2017)… trong phát triển DLST, việc tăng cường vai trò của các bên tham gia trong mạng lưới xã hội, đặc biệt là mối quan hệ hợp tác của NDĐP với các hiệp hội/NGOs/tổ chức hoạt động vì sự phát triển của cộng đồng có thể giúp cho NDĐP nâng cao tiếng nói/uy tín của họ trong cộng đồng, phát huy vai trò trong quá trình ra quyết định, gia tăng quyền được tham gia quản lý, sở hữu nguồn tài nguyên và tiếp cận các giá trị phúc lợi xã hội. Đồng thời, giúp họ nâng cao chất lượng cuộc sống, khôi phục bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống và thông qua đó gắn kết cộng đồng thành một mạng lưới xã hội mật thiết hơn.

Để gia tăng số lượng và nâng cao chất lượng các mối quan hệ trong mạng lưới xã hội cho NDĐP trong các VQG vùng ĐBSH&DHĐB; NDĐP cần tích cực hơn trong việc mở rộng mối quan hệ hợp tác với các đối tác/doanh nghiệp/tổ chức nghề nghiệp, xã hội bên ngoài cộng đồng để tận dụng được các cơ hội từ các dự án đầu tư nâng cao năng lực cho cộng đồng trong phát triển du lịch có trách nhiệm. Việc kêu gọi, thu hút các dự án của NGOs, các hiệp hội, tổ chức xã hội/các cá nhân vì cộng đồng còn có thể giúp hỗ trợ người dân nguồn vốn, trang thiết bị kĩ thuật nâng cấp, mở rộng các cơ sở lưu trú truyền thống như nhà sàn, xây dựng các bungalow, các bãi cắm trại, các cửa hàng dịch vụ ăn uống, bán quà lưu niệm/đặc sản của địa phương do NDĐP sản xuất và cung cấp... Bên cạnh đó, NDĐP cũng cần có sự liên kết mật thiết hơn với các cộng đồng xung quanh để đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, mở rộng thêm các tour du lịch chuyên đề, gia tăng sự trải nghiệm cho khách du lịch.

Để việc xây dựng thương hiệu sản phẩm DLST ở các VQG vùng ĐBSH&DHĐB thực sự được định vị rõ nét trên thị trường thì một trong những biện pháp quan trọng là cộng đồng cần được xây dựng mạng lưới liên kết kinh doanh và quảng bá thương hiệu thông qua các bên liên quan; đồng thời việc cung cấp thông tin, hình ảnh và các nội dung quảng bá về thương hiệu DLST cần được đổi mới, cập nhật và chú trọng vào tính hiệu quả tương tác giữa khách du lịch và cộng đồng hơn.

Một số biện pháp cụ thể để thúc đẩy mạng lưới liên kết, xúc tiến quảng bá này có thể kể đến như: thành lập bộ phận xúc tiến quảng bá cho DLST trong các VQG vùng ĐBSH&DHĐB với cơ chế vận hành linh hoạt, gắn kết với các cơ quan chuyên môn của địa phương, trung ương về quản lý du lịch và lâm nghiệp như Tổng cục Lâm nghiệp, Tổng cục Du lịch, các sở ban ngành về hai lĩnh vực này; xây dựng cơ chế hợp tác trong và ngoài ngành trong hoạt động hợp tác, xúc tiến quảng bá du lịch, có cơ chế tham gia và huy động vốn đối với các đơn vị, doanh nghiệp; tổ chức xúc tiến quảng bá du lịch trong và ngoài nước, chú trọng liên kết các cơ quan truyền thông có uy tín


trong và ngoài nước tại các nước là thị trường nguồn trong việc quảng bá và tạo dựng hình ảnh DLST cho các VQG vùng ĐBSH&DHĐB.

5.2.2. Thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác bên trong cộng đồng

Yếu tố hợp tác đóng vai trò quan trọng thứ hai có ảnh hưởng tích cực đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST. Tuy nhiên, hiện nay mức độ và hiệu quả hợp tác, trao đổi và chia sẻ trong cộng đồng ở các VQG vùng ĐBSH&DHĐB còn hạn chế. Đời sống người dân (dù đã tham gia làm du lịch) vẫn còn nhiều khó khăn do thu nhập thấp nên họ ít có điều kiện trao đổi và chia sẻ lẫn nhau. Bản thân người dân trong các cộng đồng rất muốn hợp tác, sở hữu kinh doanh theo hình thức “khoán” hoặc cho người dân liên kết, liên doanh, thuê môi trường rừng để làm du lịch với cơ chế ưu đãi, hỗ trợ vay vốn và thông thoáng hơn về cơ chế hành chính. Tuy nhiên, hình thức “khoán” chủ yếu mới dành cho các bộ phận ăn uống ở các VQG Cúc Phương, Ba Vì; VQG Cát Bà giao cho một số hộ dân tự tổ chức kinh doanh homstay, kinh doanh ăn uống và các hoạt động vui chơi giải trí nhưng số lượng chưa đáng kể, mối quan hệ giữa các hộ trong việc hợp tác cung ứng dịch vụ cho khách còn khá rời rạc, chủ yếu là tự doanh và đóng góp một phần lợi nhuận cho VQG; việc liên doanh, thuê môi trường rừng để phát triển DLST hiệu quả nhất ở VQG Ba Vì nhưng số lượng người dân được hưởng lợi từ cơ chế này còn rất ít, phần lớn là cho các nhà đầu tư bên ngoài thuê; tỷ lệ NDĐP vào làm thuê chiếm đa số trong cơ cấu lao động của nhóm này.

Để thúc đẩy tăng cường hợp tác, trao đổi và chia sẻ trong cộng đồng điều trước tiên là phải tăng cơ hội việc làm, tăng thu nhập và tạo cơ hội cho người dân có môi trường tương tác, trao đổi và chia sẻ với nhau nhiều hơn thông qua các hoạt động kinh doanh DLST. Khi đó, họ vừa có điều kiện về tài chính, vừa có tiếng nói trong cộng đồng và sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau khi có ai đó trong cộng đồng gặp khó khăn.

- Trước hết, muốn tăng cơ hội việc làm và tăng thu nhập cho người dân thì đầu tiên BQL các VQG phải tích cực tạo điều kiện cho người dân tham gia làm du lịch, tham gia vào bộ máy quản lý của VQG và hỗ trợ họ định hướng thị trường, đầu tư phát triển sản phẩm DLST trên cơ sở phát huy giá trị tài nguyên du lịch độc đáo, đặc sắc của VQG. Để VQG cùng NDĐP đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch có thể tập trung vào một số gợi ý sau:

+ Xây dựng thêm trung tâm thông tin tại các thôn/xã/làng/bản: Ngoài trung tâm thông tin ở khu vực hành chính của VQG, cần xây dựng thêm các trung tâm thông tin ở các địa bàn đón khách du lịch nhằm trưng bày bản đồ, sơ đồ, sa bàn mô tả HST, sự ĐDSH của VQG; các hình ảnh, biểu trưng cổ động, tuyên truyền, giáo dục ý nghĩa của việc BVMT; phát động người dân sưu tập và đóng góp trưng bày các mẫu vật, thông tin, tài liệu về các giá trị đặc sắc trong văn hóa Mường, Dao, Sán Dìu... được gìn giữ


qua các thế hệ như trang phục, các dụng cụ sản xuất, nhạc cụ, tác phẩm văn học, nghệ thuật... những thông tin này sẽ giúp du khách hiểu hơn những giá trị về tài nguyên tự nhiên cũng như nhân văn của VQG, kích thích họ tìm hiểu, nghiên cứu từ đó góp phân thu hút khách tốt hơn, tăng thời gian lưu trú. Để vận hành hoạt động các trung tâm thông tin này, BQL VQG có thể phối hợp với NDĐP trong cộng đồng lựa chọn một BQL điều phối hoạt động của trung tâm và thu hút NDĐP trực tiếp tham gia công tác tổ chức đón và phục vụ khách du lịch. Cơ chế hoạt động và phân chia lợi ích có thể luân phiên giữa các hộ gia đình, chẳng hạn như mỗi hộ sẽ cử ra một thành viên đại diện tham gia làm việc ở trung tâm và một ban điều phối sẽ luân phiên chia sẻ công việc cho mỗi thành viên tham gia hoạt động. Lợi ích chủ yếu trực tiếp sẽ dành cho những người tham gia đóng góp xây dựng và duy trì hoạt động của trung tâm, còn lại một phần dành cho các hoạt động chung của cộng đồng, hỗ trợ công tác bảo tồn và khôi phục các giá trị văn hóa truyền thống.

+ Xây dựng thêm các tuyến du lịch, các tuyến tham quan bằng đường mòn, lựa chọn một số địa điểm phù hợp để thiết kế các điểm dừng quan sát, bãi cắm trại... có thể phục du khách trekking xuyên rừng, tham quan, nghiên cứu, học tập, trải nghiệm và khám phá. Trên các tuyến này cũng cần xây dựng thêm các biển báo chỉ dẫn về các tuyến có thể tham quan và những điểm dừng chân trên tuyến, cung cấp các thông tin truyền tải thông điệp về BVMT, các quy định khi tham quan hoặc giới thiệu những điểm nổi bật về HST, ĐDSH và nguồn gen quý hiếm đang được bảo tồn tại các VQG. Để thu hút các đối tượng khách (trong nước và quốc tế) có nhu cầu trải nghiệm khác nhau, cần có sự phối hợp giữa BQL các VQG, NDĐP và các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành trong và ngoài cộng đồng nhằm xây dựng các tour DLST phù hợp với nhu cầu của từng đối tượng khách. Ngoài việc đẩy mạnh các tour trải nghiệm, chinh phục thiên nhiên và khám phá các giá trị văn hóa bản địa; có thể tùy đối tượng du khách để kết hợp thêm một số hoạt động vui chơi giải trí tăng tính hấp dẫn cho mỗi chuyến đi. Việc phân chia lợi nhuận thỏa thuận theo mối quan hệ giữa các bên liên quan tham gia cung cấp dịch vụ nhưng để duy trì và phát triển các hoạt động kinh doanh lâu bền, BQL các VQG và cách doanh nghiệp cung ứng dịch vụ cần có những ưu tiên và khuyến khích NDĐP tham gia cung ứng dịch vụ và phân chia lợi nhuận hợp lý cho họ.

+ Chú trọng công tác phát triển nguồn nhân lực, phát hiện các nhân tố có mong muốn và tố chất làm quản lý bồi dưỡng và tạo điều kiện cho họ tham gia vào các vị trí quản lý trong bộ máy vận hành các hoạt động kinh doanh du lịch của VQG hoặc mạnh dạn trao cho họ các cơ hội được tự đứng ra/hợp tác với các thành viên khác tổ chức kinh doanh các sản phẩm và dịch vụ du lịch.

- Thứ hai, để tạo cơ hội cho người dân có môi trường hợp tác, trao đổi và chia sẻ với nhau nhiều hơn thông qua các hoạt động kinh doanh DLST cần mở rộng kinh


doanh du lịch sang các khu vực khác có tiềm năng phát triển DLST trong các VQG

có cơ chế khuyến khích các hộ hợp tác cung cấp sản phẩm, dịch vụ du lịch.

+ BQL các VQG cần hoàn thiện xây dựng quy hoạch chi tiết về phát triển DLST cho các vườn; chú trọng định vị và có chơ chế khuyến khích đầu tư phát triển các sản phẩm, dịch vụ du lịch đặc trưng của mỗi VQG để khai thác hiệu quả hơn thế mạnh của mỗi vườn và gia tăng tính hấp dẫn của điểm đến.

Tại VQG Cúc Phương, bên cạnh bản Khanh có thể mở rộng một số tour du lịch liên kết trekking xuyên rừng sang các khu vực xung quanh (bản Nga, bản Biện, bản Sấm) để gia tăng trải nghiệm cho du khách; khuyến khích phát triển các trang trại nuôi ong, nuôi huơu, nuôi dê tại xã Cúc Phương thành mô hình DLST nông nghiệp, đầu tư và nâng cấp hạ tầng dịch vụ phục vụ nhu cầu tham quan và tham gia các công đoạn trong quy trình chăn nuôi và sản xuất tại các hộ gia đình. Ngoài ra, việc đa dạng hóa chương trình tham quan đang khai thác ở khu cứu hộ linh trưởng, khu bảo tồn rùa và khám phá giá trị ĐDSH ở VQG là cần thiết để tăng sức hấp dẫn hơn. Chẳng hạn, tại trung tâm cứu hộ linh trưởng, có thể lựa chọn huấn luyện một số động vật (điển hình là voọc mông trắng - biểu tượng của VQG Cúc Phương) biểu diễn một số tiết mục hay hóa thân thành nhân vật trong một câu chuyện với hàm ý nâng cao ý thức BVMT để thấy được sự gần gũi giữa con người với thiên nhiên hoặc trình chiếu các video về quá trình các loài linh trưởng bị săn bắt và được các cơ quan chức năng đưa về trung tâm cứu hộ để chăm sóc, bảo tồn qua đó giúp du khách thấy được sự cần thiết của việc chung tay kêu gọi bảo vệ động vật hoang dã. Tại khu bảo tồn rùa có thể kết hợp “thuyết minh tĩnh” để du khách di chuyển nhẹ nhàng và khám phá đời sống của các loài bò sát. Tại khu vực động Người Xưa, hang Con Moong... có thể kết hợp phục dựng, mô phỏng, tái hiện quá trình hình thành gắn với đời sống của NDĐP qua các giai đoạn lịch kết hợp khai thác giá trị văn hóa tâm linh để mở rộng hiểu biết và gia tăng trải nghiệm cho khách du lịch.

Tương tự, tại VQG Cát Bà, bên cạnh việc khai thác hoạt động treckking xuyên rừng khám phá làng Việt Hải và các địa bàn xung quanh vùng đệm của VQG có thể kết hợp dịch vụ trải nghiệm tại nhà dân và tham quan quy trình sản xuất nông nghiệp (nuôi ong, dê núi, trồng trọt...) tại các xã Trân Châu, Xuân Đám, Hiền Hòa, Gia Luận; leo núi mạo hiểm (xã Liên Minh), nghỉ dưỡng tại suối Gôi (xã Xuân Đám).... Đặc biệt, với thế mạnh của một khu vực biển đảo khá hoang sơ, VQG có thể xây dựng một trung tâm bảo tồn các loài sinh vật biển và đa dạng hóa các hoạt động trải nghiệm gắn với các làng chài để du khách tham quan, nâng cao ý thức bảo tồn và đóng góp nâng cao đời sống của NDĐP.

VQG Ba Vì có mạnh về tài nguyên và quá trình khai thác phát triển du lịch

đang diễn ra khá sinh động. Tuy nhiên, để phát triển DLST thực sự mang lại lợi ích

Xem tất cả 250 trang.

Ngày đăng: 20/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí