Đóng Góp Về Mặt Lý Thuyết Và Phương Pháp Nghiên Cứu


trong các hoạt động liên kết, liên doanh và thuê môi trường rừng.

Bên cạnh đó, để phát huy hiệu quả QCQL các hoạt động DLST ở các VQG, BQL các VQG và chính quyền cũng cần quan tâm hơn đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho địa phương ở cả hình thức tại chỗ và gửi đi học, thu hút và có chính sách đãi ngộ đối với con em địa phương quay trở về địa phương đóng góp phát triển du lịch địa phương; mở rộng và tăng cường mối quan hệ hợp tác với các trường cao đẳng, đại học đào tạo chuyên ngành về du lịch tại Hà Nội và các địa phương lân cận trong vùng như đại học Hoa Lư (Ninh Bình), đại học Hải Phòng, đại học Hạ Long (Quảng Ninh)…. có cơ chế tạo động lực cho cán bộ, nhân viên là NDĐP tham gia làm DLST; khuyến khích sáng tạo, nâng cao chất lượng dịch vụ và đánh giá “điểm cộng hoặc trừ” để có cơ chế thưởng phạt từ các phản hồi của du khách.

Ngoài việc khích lệ, hỗ trợ NDĐP tích cực tham gia làm du lịch, BQL các VQG phải có định hướng và công cụ giúp người dân đổi mới tư duy làm du lịch, biết tận dụng những lợi thế của chính họ, chủ động phối hợp với các doanh nghiệp lữ hành xây dựng các tour du lịch chuyên đề như giáo dục môi trường, khám phá thiên nhiên, bản sắc văn hóa dân tộc... phục vụ rộng rãi du khách trong nước và quốc tế. Các MQH với các doanh nghiệp nên được duy trì thường xuyên bằng việc xây dựng một mạng lưới liên kết có dữ liệu thông tin được cập nhật và có đầu mối chính phụ trách phát triển các MQH này để tạo ra sự hợp tác liên tục.

Để mở rộng và nâng cao chất lượng các mối quan hệ trong mạng lưới xã hội, công tác xúc tiến quảng bá phát triển du lịch ở các VQG cũng cần được chú trọng hơn. Một trong những khâu yếu trong việc xây dựng thương hiệu DLST ở các VQG vùng ĐBSH&DHĐB là cộng đồng rất ít được tham gia các chương trình, mạng lưới liên kết với các đối tác bên ngoài, thậm chí giữa các bản trong cộng đồng cũng ít có sự hợp tác với nhau. Vì vậy, hiệu quả kinh doanh thông qua hiệu ứng lan truyền từ sự hợp tác gần như còn bỏ ngỏ. Các ấn phẩm quảng bá cũng khá đơn điệu, chủ yếu kênh thông tin được giới thiệu trên website http://www.cucphuongtourism.com/,http://www.vuonquocgiacatba.com.vn/, http://vuonquocgiabavi.com.vn/nhưng nội dung còn chưa phong phú, ít được cập nhật và thiếu các diễn đàn để khách du lịch và cộng đồng được tương tác trao đổi thông tin. Bởi vậy, đẩy mạnh liên kết phát triển DLST với các bên liên quan thông qua nâng cao chất lượng và mở rộng hoạt động các kênh thông tin đại chúng sẽ góp phần đáng kể trong việc hỗ trợ NDĐP nhận được nhiều lợi ích hơn.

BQL các VQG cũng cần thường xuyên nắm bắt; tuyên truyền, phổ biến và tiến hành thực hiện các chủ trương các chính sách mới đang áp dụng trong việc cải thiện sinh kế cho cộng đồng như các chính sách xã hội hóa, nông thôn mới, các dự án BVMT và phát triển du lịch cộng đồng… Kết hợp kêu gọi các nhà đầu tư, các dự án tài trợ giúp người dân khôi phục, phát huy, gìn giữ văn hóa cổ truyền, làm đa dạng hóa


các sản phẩm dịch vụ du lịch và thúc đẩy du lịch cũng như đời sống của cộng đồng ngày một khởi sắc hơn. Từ đó, cũng sẽ thu hút các hộ tham gia làm du lịch nhiều hơn, tích cực, chủ động hơn trong các hoạt động tập thể.

Ngoài ra, việc thường xuyên đổi mới, hoàn thiện công tác tổ chức quản lý, vận hành trong phát triển DLST ở các VQG; kiểm tra giám sát quá trình phối hợp hoạt động giữa các bộ phận với nhau và giữa BQL với cộng đồng cư dân bản địa trong cung cấp sản phẩm DLST cũng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả phát triển DLST và mang lại nhiều lợi ích cho NDĐP hơn khi họ tham gia làm du lịch.

5.4. Những đóng góp chính của của luận án

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 250 trang tài liệu này.

5.4.1. Đóng góp về mặt lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

- Thứ nhất, kế thừa và phát triển một số vấn đề cơ sở lý luận có liên quan đến hướng nghiên cứu của đề tài, điều chỉnh khái niệm DLST và VXH gắn với hướng nghiên cứu của luận án. Cụ thể, trong khái niệm DLST, luận án nhấn mạnh vào các khía cạnh: phát triển DLST phải có sự tham gia của các bên liên quan trong đó NDĐP đóng vai trò quan trọng nhất và phát triển DLST phải nhằm mang lại các lợi ích cho NDĐP. DLST phải có các hoạt động diễn giảng môi trường và hỗ trợ bảo tồn, đây là đặc trưng khác biệt của DLST với các loại hình du lịch thông thường thể hiện ưu điểm “trách nhiệm” phát triển đi đôi với bảo tồn của DLST. Cũng chính vì những khác biệt này, phát triển DLST đòi hỏi phải có sự hỗ trợ và ủng hộ của các tổ chức NGOs (là những tổ chức hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, có thể hỗ trợ, giúp đỡ phát triển hoạt động DLST thông qua các dự án BVMT, tài trợ cho NDĐP), về quy mô phát triển DLST khuyến khích những doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiêu thụ thấp để đảm bảo PTBV đồng thời tạo cơ hội cho NDĐP có thể tham gia quản lý và sở hữu. Khái niệm đề cao sự tham gia của NDĐP, mối quan hệ của họ với các bên liên quan trong hợp tác phát triển DLST và sự phát triển này không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, VH - XH, môi trường mà còn góp phần nâng cao vị thế (tăng lợi ích chính trị) cho NDĐP. Hướng tiếp cận này cũng cho thấy mối liên hệ giữa VXH và phát triển DLST cùng những lợi ích mang lại cho NDĐP bởi bản chất của VXH theo quan điểm nghiên cứu của đề tài là một nguồn lực đặc biệt mang tính xã hội của con người, được hình thành từ mạng lưới các mối quan hệ và được tích lũy qua quá trình trao đổi, chia sẻ, hợp tác dựa trên lòng tin, sự tôn trọng các chuẩn mực nhằm mang lại lợi ích cho cá nhân/tập thể khi họ tham gia và đầu tư vào các mối quan hệ ít nhiều đã được thể chế hóa (chi phối bởi các quy định, đường lối, chính sách chung).

Ảnh hưởng của vốn xã hội đến lợi ích của người dân địa phương trong phát triển du lịch sinh thái tại các vườn quốc gia Đồng bằng sông Hồng và Duyên Hải Đông Bắc - 20

- Thứ hai, phát hiện và phát triển thêm một yếu tố/thang đo mới của VXH có ảnh hưởng đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST ở bối cảnh các VQG đó là yếu tố “Việc thực tham gia hiện QCQL hoạt động DLST ở các VQG”. Yếu tố này có hai biến quan sát có độ tin cậy cao và có giá trị phân biệt cũng như hội tụ khi phân tích nhân tố khám phá EFA với các yếu tố còn lại của VXH. Khi kiểm định hồi quy, yếu tố


này cũng cho kết quả đóng góp vai trò quan trọng, xếp hạng ở vị trí thứ 04/06 yếu tố của VXH có ảnh hưởng đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST (xếp sau các yếu tố cốt lõi của VXH là mạng lưới xã hội, hợp tác và lòng tin). Đặc biệt, trong bối cảnh nghiên cứu đây là yếu tố duy nhất của VXH có ảnh hưởng tích cực đến lợi ích kinh tế của NDĐP trong phát triển DLST. Bởi vậy, kết quả nghiên cứu sẽ làm phong phú thêm các lý thuyết có liên quan đến MQH giữa VXH và DLST.

- Thứ ba, đóng góp về bối cảnh nghiên cứu mới. MQH ảnh hưởng của VXH đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST là một hướng nghiên cứu còn khá mới mẻ ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Khái niệm VXH có nguồn gốc từ phương Tây và các nghiên cứu trước đây phần lớn cũng ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển gắn với các vấn đề thể chế, dân chủ, minh bạch, bình đẳng, tham gia vào các MQH hợp tác dựa trên lòng tin, cam kết, trách nhiệm… Gần đây, VXH được nghiên cứu trong bối cảnh các nước có nền kinh tế đang phát triển và phần lớn các nghiên cứu trước mới chủ yếu tập trung khai thác ảnh hưởng của VXH đến sự phát triển của doanh nghiệp, quản trị tri thức trong các tổ chức hay MQH với các vấn đề xã hội như đô thị hóa, việc làm, nông thôn… mà chưa có nhiều nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực du lịch, đặc biệt ở loại hình DLST với sự tham gia của NDĐP ở những địa bàn có tính cộng đồng tương đối cao. Một số nghiên cứu khám phá MQH này trong lĩnh vực du lịch đã lựa chọn nghiên cứu ở các khu vực nông thôn, trang trại, ven biển… nhưng lại thiếu các nghiên cứu đầy đủ về ảnh hưởng của VXH đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST ở các VQG, KBTTN - những địa bàn được xem là “lý tưởng” để phát triển DLST. Số ít các công trình nghiên cứu về MQH này (Liu et al., 2005; Nguyen, 2007; Marcinek and Hunt, 2015) ở các VQG, KBTTN hiện nay mới chỉ chủ yếu quan tâm khám phá, phân tích ảnh hưởng của VXH đối với các lợi ích môi trường và việc bảo vệ nguồn tài nguyên; các lợi ích khác ít được đề cập đến. Vì thế, nghiên cứu ảnh hưởng của VXH đối với lợi ích (chính trị, kinh tế, VH - XH và môi trường) của của NDĐP trong phát triển DLST diễn ra trong bối cảnh ở các VQG vùng ĐBSH&DHĐB (Việt Nam) sẽ là một đóng góp mới cho bối cảnh nghiên cứu ở một chủ đề chưa từng được nghiên cứu trước đó ở phạm vi khu vực này.

- Thứ tư, trả lời được một số câu hỏi nghiên cứu mới cho chủ đề ảnh hưởng của VXH đối với lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST. Mặc dù đã có không ít nghiên cứu quan tâm đến chủ đề này song việc phân tích và kiểm định được mức độ ảnh hưởng của từng thang đo của yếu tố VXH đến từng lợi ích cụ thể (chính trị, kinh tế, VH - XH và môi trường) của NDĐP trong phát triển DLST thì chưa được xác định rõ trong các nghiên cứu trước đây. Kết quả nghiên cứu sẽ một lần nữa khẳng định và chứng minh giả thuyết nghiên cứu: có MQH ảnh hưởng của VXH đối với lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST, trong đó mỗi yếu tố khác nhau của VXH sẽ có mức độ


ảnh hưởng khác nhau đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST tại bối cảnh nghiên cứu là các VQG vùng ĐBSH&DHĐB. Ngoài ra, tại mỗi VQG (Cúc Phương, Ba Vì, Cát Bà) đặc điểm VXH và mức độ ảnh hưởng đến các lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST cũng không đồng nhất.

- Thứ năm, điều chỉnh một số thang đo nghiên cứu. Trong bối cảnh các VQG vùng ĐBSH&DHĐB có điểm khác biệt so với các nghiên cứu trước là khi phân tích EFA, yếu tố chuẩn mực (thuộc biến độc lập VXH) được tách ra thành hai yếu tố độc lập là “chuẩn mực quy tắc” và “chuẩn mực xã hội”, yếu tố lợi ích VH - XH (thành phần của biến phụ thuộc “Lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST”) cũng được tách ra thành hai yếu tố độc lập là “lợi ích VH - XH cho cá nhân/hộ gia đình và lợi ích VH - XH cho cộng đồng”. Các thang đo điều chỉnh đều có giá trị trong nghiên cứu và cho thấy, trong những bối cảnh nghiên cứu đặc thù như ở các NDĐP ở các VQG các yếu tố về chuẩn mực có sự khác nhau trên hai khía cạnh: Khía cạnh thứ nhất, chuẩn mực quy tắc: NDĐP tôn trọng các quy định pháp luật, quy định bảo tồn (đó là những điều bắt buộc đối với những địa bàn thuộc sở hữu quản lý của nhà nước gắn với bảo tồn ĐDSH và các nguồ gen quý hiếm); khía cạnh thứ hai, chuẩn mực xã hội: người dân tôn trọng các quy ước riêng của cộng đồng và các chuẩn mực có trong xã hội địa phương. Các yếu tố về lợi ích VH - XH cũng được chia thành hai nhóm độc lập cũng thể hiện cho đặc trưng tại các địa bàn nghiên cứu có tính cộng đồng rõ nét như ở các VQG việc hợp tác trong quá trình khôi phục, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, khuyến khích tham gia các hoạt động mang tính cộng đồng tạo cho cộng đồng kết nối thành một mạng lưới chính là biểu hiện của những lợi ích VH - XH mang tính cộng đồng. Lợi ích này là rõ ràng và nó phân biệt với lợi ích VH - XH dành cho cá nhân/hộ gia đình tham gia phát triển DLST.

- Thứ sáu, phát hiện thêm một số kết quả nghiên cứu mới so với các nghiên cứu trước. Trong đó, nghiên cứu không đủ cơ sở để kết luận yếu tố “trao đổi, chia sẻ” có ảnh hưởng đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST tại các VQG. Trong khi đó, kết quả nghiên cứu của Sawatsky (2003), Jones (2005), Liu et al. (2014), Nguyen (2007), Zhao and et al. (2011), Musavengane (2017)… đã ghi nhận sự ảnh hưởng này. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy một số yếu tố của biến NKH có ảnh hưởng kiểm soát ngược chiều/hạn chế lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST ở các VQG, cụ thể ảnh hưởng của yếu tố trình độ đối với lợi ích chính trị, VH - XH của cộng đồng và ảnh hưởng của yếu tố thu nhập đến lợi ích môi trường cũng là ngược chiều. Đây là những kết quả khác biệt so với các nghiên cứu tương đồng của Foucat (2002), Liu et al. (2005), Park et al. (2012)… Điều đó giúp khẳng định thêm nhận định VXH là một yếu tố “dễ thay đổi theo không gian, thời gian” (Bourdieu, 1983), phụ thuộc nhiều vào bối cảnh nghiên cứu và việc áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính sẽ giúp giải thích thấu đáo hơn các kết quả nghiên cứu định lượng.


Những đóng góp của luận án sẽ góp phần tạo thêm “động lực” thúc đẩy các nghiên cứu tiếp theo bổ sung và phát triển các hướng nghiên cứu mới có liên quan với hướng nghiên cứu của luận án.

5.4.2. Đóng góp về mặt thực tiễn

- Thứ nhất, đối với các cơ quan quản lý phát triển DLST từ trung ương đến địa phương: kết quả nghiên cứu sẽ giúp các nhà quản lý hiểu rõ hơn bản chất của việc phát triển DLST và MQH với việc gia tăng VXH cho NDĐP; từ đó có những điều chỉnh trong chiến lược, có cơ chế chính sách tạo điều kiện cho các bên tham gia và xây dựng các văn bản quy hoạch phù hợp với việc phát triển DLST nhằm đạt được các mục tiêu PTBV cho ngành du lịch nói chung và hoạt động DLST trong các VQG vùng ĐBSH&ĐHĐB nói riêng.

- Thứ hai, đối với các nhà kinh doanh DLST, đặc biệt đối với các doanh nghiệp/hộ kinh doanh gia đình do NDĐP sở hữu và quản lý; kết quả nghiên cứu giúp cho các nhà kinh doanh nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của các nhân tố cấu thành nên VXH có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh DLST của họ; từ đó họ sẽ có những hoạt động cụ thể trong việc thúc đẩy các MQH với các bên liên quan và tăng cường VXH với cộng đồng dân cư, các nhà quản lý và các thành phần khác có quan hệ trong việc phát triển DLST để nâng cao chất lượng sản phẩm và gia tăng các lợi ích cho cộng đồng.

- Thứ ba, đối với NDĐP những người trực tiếp tham gia một phần hoặc tham gia quản lý các hoạt động DLST; thông qua kết quả nghiên cứu sẽ giúp người dân nhận thức rõ hơn ảnh hưởng của VXH đến hiệu quả nâng cao chất lượng đời sống của họ từ hoạt động DLST, đồng thời họ cũng sẽ thấy được ý nghĩa của VXH trong việc gia tăng uy tín, quyền lực của họ trong cộng đồng và họ cũng sẽ có ý thức trách nhiệm hơn trong các hành vi BVMT xung quanh nhằm đảm bảo phát triển các hoạt động du lịch theo “triết lý” bền vững.

- Thứ tư, đối với khách du lịch đặc biệt những khách du lịch có nhu cầu thực sự được hưởng các sản phẩm DLST “đích thực”; kết quả nghiên cứu sẽ giúp khách du lịch cũng có ý thức trách nhiệm hơn trong việc lựa chọn các tour DLST gắn với BVMT, ủng hộ cho các nỗ lực bảo tồn và có sự tham gia quản lý của NDĐP. Đồng thời, khách du lịch cũng chính là một thành phần quan trọng giúp tăng cường sự gắn kết hiệu quả hơn trong “mạng lưới” của VXH vì mục tiêu chung của các bên liên quan trong kinh doanh DLST.

- Thứ năm, đối với các tổ chức/cá nhân và các bên liên quan khác tham gia và có ảnh hưởng đến phát triển DLST (NGOs, các nhà nghiên cứu…); kết quả nghiên cứu dự kiến sẽ giúp các bên liên quan này đánh giá đúng mức vai trò của VXH đến phát triển DLST và từ đó có những kế hoạch và hành động phù hợp trong các dự án, chương trình hoạt động để đạt hiệu quả và chất lượng như mong muốn.


5.5. Những hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo

Thứ nhất, kết quả phân tích nghiên cứu đã phân tích được những ảnh hưởng của VXH đối với lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST trong các VQG vùng ĐBSH&DHĐB qua việc phân tích dữ liệu với quy mô mẫu 318. Tuy nhiên, mẫu nghiên cứu lấy theo phương pháp thuận tiện, ngẫu nhiên có chọn lọc khi đã cố gắng lấy ở 3 VQG điển hình ở vùng ĐBSH&DHĐB nhưng cũng không tránh khỏi hạn chế về sự chênh lệch trong quy mô mẫu của mỗi VQG.

Thứ hai, căn cứ vào mục tiêu, bối cảnh nghiên cứu đề tài chỉ lựa chọn một số yếu tố của VXH thường được ứng dụng nghiên cứu trong lĩnh vực du lịch/DLST như lòng tin, trao đổi và chia sẻ, chuẩn mực, sự hợp tác, mạng lưới xã hội và phát triển thêm thang đo mới “việc tham gia tham gia thực hiện QCQL hoạt động DLST ở các VQG” để tiến hành nghiên cứu. Bởi vậy, các nghiên cứu tiếp theo có thể khám phá thêm các yếu tố còn lại/các yếu tố mới của VXH trong MQH với lợi ích của NDĐP hoặc có thể mở rộng nghiên cứu thêm ở các chủ đề/khía cạnh khác xung quanh sự phát triển của DLST.

Thứ ba, thuật ngữ VXH là một “thuật ngữ khó” được sử dụng chủ yếu ở các nước phương Tây, khi chuyển đổi sang thuật ngữ tương đương tiếng Việt thật không dễ để làm thế nào thực sự đảm bảo tính nguyên gốc (phải để cả tiếng Anh để tiện đối chiếu) và tác giả cũng mất rất nhiều công sức để nghiên cứu tìm hiểu đúng bản chất của VXH trong MQH ảnh hưởng đối với lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST ở bối cảnh Việt Nam; tác giả cũng đã mất rất nhiều thời gian, kiên trì đi khảo sát thực tế, lắng nghe, giải thích kỹ lưỡng cho NDĐP các thông tin trong bảng hỏi khảo sát và các câu hỏi phỏng vấn để họ có thể trả lời đúng. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng rất khó để có một cái nhìn “tròn trịa”, toàn diện về VXH với những quan điểm đưa ra về khái niệm và phân tích, bình luận những nghiên cứu trước về chủ đề liên quan đến MQH giữa VXH và lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp một tài liệu tham khảo hữu ích về mặt học thuật trong chủ đề liên quan cho những nghiên cứu tiếp theo.

Thứ tư, một số kết quả nghiên cứu về mức độ ảnh hưởng của từng thang đo thuộc yếu tố VXH đối với từng nhóm lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST có thể chưa lý giải được thỏa đáng dù đã lấy phương pháp định tính (phỏng vấn sâu) làm cách tiếp cận chính để giải thích (có thể một phần do những đặc tính vô hình (intangible) của VXH trong những bối cảnh khác nhau). Vì vậy, đây là một chủ đề sẽ còn được tác giả tiếp tục “đào sâu” nghiên cứu trong thời gian sắp tới.

Căn cứ vào những hạn chế của đề tài luận án, tác giả đưa ra một số gợi ý cho những nghiên cứu tiếp theo có liên quan đến hướng nghiên cứu của đề tài:

1) Nghiên cứu ảnh hưởng của VXH đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST


ở bối cảnh các VQG khác (ngoài phạm vi đề tài nghiên cứu) hoặc các KBTTN, khu dự trữ sinh quyển… nhằm thêm căn cứ khẳng định tính quy luật của chủ đề nghiên cứu hoặc có thể khám phá một số phát hiện mới từ các nghiên cứu này.

2) Nghiên cứu ảnh hưởng của VXH đến lợi ích của các bên tham gia khác bên cạnh NDĐP trong phát triển DLST, so sánh và gợi ý chính sách phát huy vai trò của từng bên tham gia và đề xuất được những giải pháp phù hợp nhằm tăng cường VXH và lợi ích cho họ.

3) Khám phá thêm ảnh hưởng của các yếu tố khác đã từng được đề cập là thành phần của VXH (không nằm trong phạm vi nghiên cứu lựa chọn của luận án) như: yếu tố thái độ, hành vi, xung đột và gắn kết, quyền lực, bình đẳng và ra quyết định…. (đã được trình bày ở mục 2.1.3)

4) Nghiên cứu mối quan hệ ảnh hưởng của VXH đến lợi ích phát triển/sự phát triển của các loại hình du lịch khác như du lịch cộng đồng, du lịch nông thôn trang trại,… là những loại hình có sự tham gia của người dân và có những đặc tính riêng trong VXH của mỗi cộng đồng cư dân, qua đó có thể so sánh những ảnh hưởng khác nhau của VXH đến các loại hình du lịch này và gợi ý chính sách cho từng đối tượng nghiên cứu khác nhau.

5) Khám phá ảnh hưởng của các nguồn vốn khác bên cạnh VXH đến lợi ích của NDDP trong phát triển DLST được đề cập đến trong khung Lý thuyết khung sinh kế bền vững DFID (Department for International Development, 1999), bên cạnh VXH, có các loại vốn khác như: vốn tự nhiên, vốn con người, vốn tài chính và vốn vật chất. Từ đó, cung cấp thêm các vấn đề lý luận và gợi ý chính sách/đề xuất toàn diện về phát triển DLST thông qua tìm hiểu về mối quan hệ giữa các nguồn vốn và những lợi ích mang lại cho NDĐP.


TIỂU KẾT CHƯƠNG 5

Dựa vào các kết quả nghiên cứu được trình bày ở chương 4 đề tài đã bàn luận mức độ ảnh hưởng cũng như giải thích được nguyên nhân trong MQH nhân - quả “VXH và những ảnh hưởng đến các lợi ích chính trị, kinh tế, VH - XH cho cá nhân/hộ gia đình/cộng đồng và lợi ích môi trường trong phát triển DLST”. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST cho NDĐP ở trong các VQG vùng ĐBSH&DHĐB thông qua tăng cường VXH trong cộng đồng. Ngoài ra, nghiên cứu cũng đưa ra các khuyến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước về phát triển DLST ở các VQG từ cấp trung ương đến địa phương nhằm có những cơ chế, chính sách hỗ trợ người dân tăng cường VXH và thúc đẩy phát triển DLST. Cuối cùng, đề tài cũng đã phân tích và làm rõ những đóng góp cả về mặt lý luận, thực tiễn và gợi ý các hướng nghiên cứu tiếp theo để chủ đề nghiên cứu tiếp tục được hoàn thiện hơn.


KẾT LUẬN

Phù hợp với các nghiên cứu trước đây về ảnh hưởng của VXH đến phát triển DLST (Foucat, 2002; Sawatsky, 2003; Jones, 2005; Nguyen, 2007; Okazaki, 2008; Zhao and et al., 2011; Park and et al., 2012; Pongponrat and Chantradoan, 2012; Thammajinda, 2013; Liu et al., 2014; Gaitho, 2014; Marcinek and Hunt, 2015; Musavengane, 2017…) nghiên cứu này một lần nữa khẳng định vai trò ảnh hưởng quan trọng của VXH đối với các lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST trên các mặt chính trị, kinh tế, VH - XH và môi trường. Trong trong bối cảnh nghiên cứu ở các VQG vùng ĐBSH&DHĐB, kết quả nghiên cứu có một số khám phá, phát hiện đóng góp đóng mới về mặt học thuật, lý luận về MQH giữa VXH và phát triển DLST cũng như các lợi ích của NDĐP.

VXH có nhiều thành phần khác nhau trong đó phổ biến nhất được các nghiên cứu trong lĩnh vực phát triển du lịch DLST đề cập đến là các yếu tố về lòng tin, sự trao đổi và chia sẻ, chuẩn mực, sự hợp tác, mạng lưới xã hội. Đây cũng chính là các yếu tố/thang đo độc lập được nghiên cứu kết thừa. Ngoài ra, trong bối cảnh nghiên cứu, đề tài đã khám phá và phát hiện thêm thang đo mới “Việc tham gia thực hiện QCQL hoạt động DLST ở các VQG”. Để phát triển thang đo, nghiên cứu đã tiến hành đầy đủ các bước theo quy trình từ sơ bộ đến chính thức. Tất cả các thang đo trước khi đưa vào phân tích hồi quy kiểm định mô hình nghiên cứu đều đảm bảo hệ số độ tin cậy (CA), giá trị hội tụ và phân biệt (EFA) với mức ý nghĩa thống kê đạt yêu cầu. Trong đó, điểm mới của đề tài so với các nghiên cứu trước là điều chỉnh thang đo chuẩn mực thành hai nhóm, đặt tên mới là chuẩn mực quy tắc và chuẩn mực xã hội; lợi ích VH - XH cũng được tách ra thành hai nhóm, đặt tên mới là lợi ích VH - XH của cá nhân/hộ gia đình và lợi ích VH - XH của cộng đồng.

Kết quả kiểm định mô hình tổng thể về ảnh hưởng của VXH đến lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST tại các VQG vùng ĐBSH&DHĐB cho thấy, MQH này là tích cực và VXH đóng góp 25,9% cho những lợi ích mà NDĐP nhận được trong phát triển DSLT.

Có 06 yếu tố của VXH ảnh hưởng tới lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố này lần lượt từ cao xuống thấp là: (1) Mạng lưới xã hội, (2) Hợp tác, (3) Lòng tin, (4) Việc tham gia thực hiện QCQL hoạt động DLST ở các VQG, (5) Chuẩn mực xã hội, (6) Chuẩn mực quy tắc. Duy nhất có yếu tố sự trao đổi và chia sẻ không ảnh hưởng đến các lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST. Các lợi ích của NDĐP trong phát triển DLST có ảnh hưởng từ VXH xếp theo thứ tự là: (1) Lợi ích chính trị, (2) Lợi ích VX-XH của cộng đồng, (3) Lợi ích môi trường, (4) VH- XH của cá nhân/hộ gia đình và (5) Lợi ích kinh tế.

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/03/2023