Những Công Trình Kiến Trúc Phật Giáo Tiêu Biểu Của Trung Quốc.


Các đế vương lợi dụng bối cảnh văn hóa tôn giáo của nền kiến trúc này để hỗ trợ cho việc cai trị của mình, cho nên đẩy mạnh và phát triển các kỹ năng nghệ thuật kiến trúc.

Phật giáo thời kỳ này đã có mặt ở Trung Quốc và được vua chúa sùng phụng. Vua quan nhà Hán một mặt ra sức xây dựng chùa chiền cử hành những hoạt động tôn giáo. Từ ngôi chùa đầu tiên của Phật giáo được hình thành bao gồm Phật điện, Phật tháp, Kinh tràng, thạch quật, kiến trúc Phật giáo Trung Quốc đã trở thành một trong những nội dung chính của nền kiến trúc cổ đại Trung Quốc, được sùng phụng và hộ trì của các bậc đế vương cho nên nền kiến trúc này có giá trị đặc biệt và trọng yếu trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kiến trúc cổ đại Trung Quốc.

Kiến trúc Phật giáo Trung Quốc so với kiến trúc cung điện về qui mô thì không bằng, nhưng về nghệ thuật thì trội hơn rất nhiều so với kiến trúc cung điện. Nếu so với số lượng, vật liệu xây dựng hình dáng kiến trúc cũng có thể sánh ngang bằng với kiến trúc cung điện. Nếu nói về nội hàm văn hóa và chiều sâu nghệ thuật giá trị thẩm mỹ thì hơn hẳn kiến trúc cung đình.

Kiến trúc cổ đại Trung Quốc lấy kết cấu gỗ làm phương thức kết cấu chính, ngoài ra dùng phương thức giá đỡ để làm kết cấu phần đầu cột cũng như phần chịu lực của phần dang rộng mái. Ngoài ra giá đỡ còn mang tính trang trí cho kiến trúc cũng như sự khéo léo của nghệ thuật sắp xếp kiến trúc. Kết cấu giá đỡ được dùng trong kiến trúc cổ đại Trung Quốc đế đời Hán thì việc sử dụng kết cấu này trong kiến trúc quan trọng của quốc gia đã được thể chế hóa [49,254].

Có chế độ và đẳng cấp nghiêm ngặt, việc sử dụng kết cấu giá đỡ trong kiến trúc rất hạn chế, duy chỉ có cung điện, tự viện và các kiến trúc cao cấp khác của nhà nước mới được cho phép sử dụng kết cấu này. Ở chỗ này kiến trúc Phật giáo và kiến trúc cung điện chung một thể chế đặc thù, cho nên kiến


trúc Phật giáo sử dụng kết cấu giá đỡ trong phạm vi rất rộng, số lượng rất nhiều về kiểu dáng và chất liệu làm cho người thời đó phải tán thán.

Chùa Trung Quốc được xây dựng thịnh hành, Phật giáo Trung Quốc bắt đầu phát triển mạnh, có thể nói là từ thời Nam Bắc triều cho đến Tùy Đường. Bất luận từ đô thành cho đến làng xóm, đâu đâu cũng đều có chùa chiền do quốc gia xây cất hoặc là chính quyền địa phương xây dựng, tập trung nhân lực tài lực xây dựng chùa chiền tháp miếu điêu khắc Phật động. Đương thời thủ đô nam triều là Kiến Khang có hơn 500 ngôi chùa. Thời Bắc Ngụy thủ đô Lạc Dương có hơn 1367 ngôi chùa. Đến đời Tùy chùa chiều đã đạt đến 1434 ngôi, chiếm diện tích 60% của kinh đô nhà Tùy.

Đời nhà Đường vào thời kỳ hoàng kim của Phật giáo có 45000 ngôi chùa. Cho đến đầu đời nhà Thanh chùa chiền đã đạt tới ngưỡng 80.000 ngôi. Trong đó những ngôi chùa nổi tiếng và được bảo tồn còn tương đối tốt cũng hơn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

1.000 ngôi 10. Ngũ Đài Sơn, Nga My Sơn, Phổ Đà Sơn, Cửu Hoa Sơn cùng với Đôn Hoàng, Mai Tích Sơn, Vân Cương, Thiên Long Sơn, Long Môn v.v…

Đều là những chỗ tập trung diện đài tháp miếu cũng như Phật động nhiều nhất của Phật giáo Trung Quốc. Sự hiện hữu của Phật tự Trung Quốc có thể nói Đông Từ Thượng Hải, Tây đến Tân Cương, bắc từ Hắc Long giang, Nam đến Quảng Đông Nam Hải, nơi đâu cũng có dấu tích của Phật giáo, có một lượng vật thể kiến trúc vô cùng phong phú, đứng nhất trong nền kiến trúc cổ đại Trung Quốc.

Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đối với kiến trúc và điêu khắc Phật giáo Trung Quốc - 6

Nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Trung Quốc thuộc về không gian tạo hình nghệ thuật, từ thuộc tính tôn giáo, nhu cầu xây dựng kiến trúc và bố cục kiến trúc cần phải tuyển trạch cục đất để phù hợp với tổ hợp và quần thể kiến trúc phục vụ tôn giáo, nội bộ không gian của kiến trúc cùng với hoa văn trang trí


10 Dẫn qua bản dịch của Lương Duy Thứ dịch (H 1994), Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc, NXB.Văn hóa Thông tin.


cũng như các đề tài điêu khắc và xử lý ánh sáng màu sắc không gian dựa trên ý niệm, tâm lý cảm ứng của người học Phật đối với sự truy cầu ý thức cảnh giới của chư Phật.

Cho nên thông qua các thủ pháp nghệ thuật tạo nên một không khí liêng thiêng thần bí và thanh khiết của Đạo Phật, dùng cảm giác tinh thần mạnh nhất và thẩm thấu lục cao nhất để giáo hóa người học Phật, đây chính là sự vận dụng tổng hợp thủ pháp tạo hình nghệ thuật biểu hiện công năng của tôn giáo trong kiến trúc của Phật giáo.

Bắt đầu từ thời Nam Bắc triều kiến trúc Phật giáo Trung Quốc đã dùng đến điêu khắc, hội hoại, thư pháp cùng với khắc bia kết hợp với kiến trúc tạo thành một tổ hợp kiến trúc nghệ thuật, bắt đầu các công trình đào tạo các động đá để thờ Phật, sáng tạo nên một kiểu kiến trúc mới, tổng hợp hết các thành tố nghệ thuật đã nêu trên, từ đó về sau lối kiến trúc này có ảnh hưởng sâu rộng và hầu hết trong các công trình kiến trúc Phật giáo cổ đại cũng như trong hiện đại. Do đó Phật tự, Phật tháp, Kinh tràng, Thạch quật…v..v..

Từ kết cấu cho đến trang trí lớn cho đến cả ngôi tự viện, nhỏ cho đến những chỗ trang trí vi tế nhất đều dùng cơ chế tạo hình nghệ thuật, do đó kiến trúc cung điện được làm giàu thêm bởi những biểu hiện của kiến thức và nội hàm văn hóa kiến trúc Phật giáo, thêm những ý niệm về cảm thụ mỹ học.

Đi ngang qua lịch sử cổ đại Trung Quốc, những thành tựu của kiến trúc nghệ thuật Trung Quốc không thể không nói đến nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Trung Quốc. Cho đến ngày hôm nay những kiến trúc gỗ còn tồn lại lâu nhất và sớm nhất, những hoa văn họa tiết, các tác phẩm tượng Phật và Bồ tát, Thiên Long Bát Bộ Thần chúng. Các tác phẩm bích họa, khắc đá đều là những tác phẩm hy hữu truyền thế quốc bảo của nền nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Trung Quốc nói riêng và nền nghệ thuật kiến trúc văn hóa nói chung,


cũng là một hiện tượng hiếm thấy của một trong những nền kiến trúc cổ đại thế giới.

Kiến trúc nghệ thuật Phật giáo Trung Quốc hình thành vị trí đặc thù trong nền kiến trúc cổ đại Trung Quốc, không phải là việc ngẫu nhiên. Các triều đại đế vương sùng kính Phật giáo, dùng lực lượng tài vật của quốc gia xây dựng các công trình kiến trúc Phật giáo, nguyên nhân này khởi nguồn từ chỗ Phật giáo và chính trị có sự liên kết chặt chẽ với nhau.

Giáo nghĩa nhân quả báo ứng, lý luận sanh tử luân hồi của Phật giáo và lấy sự cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng sanh, lợi người tức là lợi mình để giáo hóa chúng sanh, dung hợp triết học cổ đại Trung Quốc, làm cho chẳng những thượng tầng xã hội có thể tiếp thu được Phật giáo, mà tầng lớp cùng khổ có địa vị thấp nhất trong xã hội cũng có thể thấm nhuần giáo nghĩa này.

Chính giáo nghĩa này đã làm cho Phật giáo lưu truyền và phát triển rộng rãi trong các tầng lớp xã hội Trung Quốc, đối với chế độ phong kiến quan lại giáo nghĩa này có tính an định xã hội và tạo sự cần thiết cho một trật tự xã hội mà ý tưởng thống trị luôn luôn quan tâm và tìm cách điều phối, có lợi đối với lợi ích chính trị, cho nên được nhà nước bảo hộ.

Phật giáo cũng có những ảnh hưởng rò nét trong lĩnh vực hội họa và điêu khắc. Cùng với Phật giáo, nghệ thuật hang đá của Ấn Độ và Tây Vực cũng được truyền vào Trung Quốc. Ai ai cũng biết, nghệ thuật Phật giáo của Ấn Độ cổ đại chủ yếu là bích họa và điêu khắc hang đá, tiêu biểu là nghệ thuật hang đá ở Gandhara (nay thuộc vùng Peshawar của Pakistan) và A Chiên Đà (nay là cao nguyên Decan của Ấn Độ). Những tác phẩm này đều có từ thế kỉ thứ 3 đến thế kỉ 1 trước Công Nguyên. Nghệ thuật hang đá ở Gandhara chủ yếu là điêu khắc, nghệ thuật hang đá ở A Chiên Đà chủ yếu là bích họa. Nghệ thuật hang đá của Trung Quốc kế thừa và phát triển nghệ thuật của các loại hang đá nói trên. Tuyến đường ảnh hưởng của nó chính là “con đường tơ lụa” trên bộ


thường được nhắc đến trong lịch sử. Nghệ thuật hang đá hiện có ở Tân Cương Trung Quốc phải kể đến: Động Ngàn Phật ở Khắc Tư Nhĩ thuộc huyện Bái Thành, Động Ngàn Phật Sâm Mộc Tái Mẫu ở huyện Khố Xa…, những hang động niên đại khai phá sớm hơn ở vùng Trung Nguyên, phong cách nghệ thuật thì gần giống ở Gandhara. Những điêu khắc hang đá ở vùng Trung Nguyên đã dần dần tiếp thu và hòa hợp với phong cách nghệ thuật của Trung Quốc, việc tạc tượng cũng mô phỏng theo hình tượng của người Trung Quốc, đương nhiên cũng có bảo lưu một số đặc điểm của nghệ thuật điêu khắc Ấn Độ. Ví dụ 18 La Hán và 500 tượng La Hán trong các ngôi chùa lớn vừa có hình tượng của người Trung Quốc vừa có hình tượng của người Ấn Độ. Về tranh bích họa, sau khi Phật giáo được truyền vào Trung Quốc, tranh bích họa có nội dung Phật giáo phát triển rất nhanh, các họa sĩ Phật giáo nổi tiếng như Ngô Đạo Tử… lần lượt xuất hiện. Về phương pháp biểu hiện, sinh hoạt, tu hành của Thích Ca Mâu Ni ở Ấn Độ cùng với đình đài lâu các truyền thống của Trung Quốc khiến người Trung Quốc cảm thấy gần gũi và thân thiện hơn .

1.3.5. Phật giáo với ngôn ngữ Trung Quốc


Phật giáo được lưu truyền đã khiến cho ngôn ngữ Phật giáo, điển tích Phật giáo và ca khúc Phật giáo thâm nhập vào đời sống xã hội, mất đi ý nghĩa Phật giáo và có hàm nghĩa xã hội, trở thành các thành ngữ tục ngữ, ngạn ngữ và từ ngữ thường dùng trong đời sống. Ví dụ: “nhất trần bất nhiễm” (không dính lấy một hạt bụi trần ai). Phật gia gọi sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là “lục trần”, nếu biết loại bỏ mọi suy nghĩ vẩn vương khi tu hành thì Phật ngữ gọi là “Nhật trần bất nhiễm”. Phật ngữ này sau khi trở thành ngôn ngữ xã hội lại có nghĩa là trong sạch. Hay như “Ngũ thể đầu địa” (rạp lạy sát đất) là tư thế kính lễ của Phật giáo, chỉ hai đầu gối, hai khuỷu tay và đầu đều chạm đất thì nay dùng để chỉ sự kính phục. “Đương đầu nhất bổn” có ý nghĩa là nhắc nhở, cảnh cáo. Thành ngữ này xuất phát từ câu chuyện về phương thức bái sư


của Lâm Tế Tông, một nhánh của Thiền Tông Phật giáo (nay thuộc huyện Chính Định, tỉnh Hà Bắc). Nghĩa Huyền - người sáng lập ra giáo phái này xin sư phụ dạy bảo đạo lý Phật giáo nhưng cả 3 lần hỏi đều bị sư phụ đánh để rồi mới tỉnh ngộ, sau này trở thành tục lệ, sư phụ thường đánh đòn cảnh tỉnh hoặc quát mắng các đồ đệ mới học Thiền pháp, yêu cầu các đồ đệ phải trả lời ngay để kiểm tra độ hiểu biết về đạo Phật của họ. Ngoài ra một số thành ngữ khác như “Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn” (Bể khổ vô bờ, quay đầu là bờ), “phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật” (bỏ dao đồ tể thì thành Phật), “đầu quy thị đạo”, “tâm tâm tương ấn” (ý hợp tâm đầu), “thanh quy giới luật”, “tưởng nhập phi phi” (suy nghĩ viển vông)… những thành ngữ này đều có xuất phát từ kinh Phật, Phật ngữ hoặc những điểm tích Phật giáo, ngoài ra còn có nhiều hiện tượng ngôn ngữ khác được phát sinh từ sinh hoạt Phật giáo, ví dụ: “trượng nhị hòa thượng mạc bất trước đầu não” (nhà sư cao một trượng hai sờ không thấy đầu chẳng hiểu đầu đuôi sự việc ra sao), “lâm thời bão phết cước” (nước đến chân mới nhảy)…[20,234].

1.4. TIỂU KẾT


Văn hoá, văn minh Ấn Độ với những thành tựu rực rỡ khẳng định sức ảnh hưởng mạnh mẽ của mình đối với các nền văn hoá khu vực thông qua đại diện là Phật giáo. Hình ảnh của Phật giáo khi vào Trung Quốc, mặc dù có sự thay đổi qua dòng chảy của lịch sử, thậm chí có sự thù địch trong thái độ của các nhà cầm quyền, nhưng Phật giáo vẫn bộc lộ mạnh mẽ từ khi xâm nhập vào Trung Quốc cho đến tận ngày nay, ngay cả dưới chế độ của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Vào năm 1959, đã từng có những văn bản nhà nước coi Trung Hoa như “vùng đất tinh khiết của Amitãbha” và coi Mao Chủ tịch như Đức Phật. Thiên đường mà người dân Trung Quốc mong muốn có được trong thời cổ đại và trung cổ giờ đây được coi là đã xuất hiện, đó là


nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày nay. Điều đó chứng tỏ rằng sự mời gọi mang tính truyền thống của Đạo Phật vẫn còn đầy sức sống.

Trong suốt 2000 năm qua, văn hóa Ấn Độ nói chung và Phật giáo nói riêng đã giao thoa cùng văn hóa bản địa tại Trung Quốc để tạo ra bản sắc văn hóa Phật giáo Trung Quốc. Nó thường xuyên có mặt trong các lĩnh vực sinh hoạt văn hóa tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo của người dân Trung Hoa. Dù ở bất cứ thời điểm nào trong 2000 năm qua, Phật giáo cũng quyện vào với văn hóa dân tộc tại Trung Quốc. Nó đã để lại những dấu ấn sâu đậm, nhất là trong văn hóa truyền thống trong suốt quá trình du nhập và bản địa hóa của mình. Có thể nói, trong mọi lĩnh vực, Phật giáo đều có những cống hiến đối với nền văn hóa truyền thống Trung Hoa, tiếp thêm một bộ phận mới mẻ vào dòng sông văn hóa đó. Vì vậy, khi chúng ta nghiên cứu lịch sử văn hóa Trung Quốc, chúng ta không thể tách rời việc nghiên cứu văn hóa Ấn Độ nói chung và đặc biệt là Phật giáo nói riêng.


CHƯƠNG 2.

DẤU ẤN CỦA VĂN HOÁ ẤN ĐỘ

TRONG KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO TRUNG QUỐC.

------------------***-----------------


2.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO TIÊU BIỂU CỦA TRUNG QUỐC.

Phật giáo chủ trương ly trần xuất thế, vì vậy chùa chiền được xây dựng ở các vùng núi yên tĩnh. Hàng vạn năm trở lại đây, để đáp ứng yêu cầu bái Phật, kính Phật và bảo vệ tín ngưỡng Phật giáo, các tầng lớp dân chúng ở Trung Quốc đã bỏ ra rất nhiều tiền của để xây dựng hàng loạt hang đá, tượng Phật, tháp Phật và chùa chiền, tạo nên nhiều văn vật và thắng cảnh Phật giáo trong đó có những thắng cảnh được cả thế giới đánh giá cao.

2.1.1. Bốn ngọn núi Phật giáo nổi tiếng11


Bao gồm có Ngũ Đài Sơn (huyện Ngũ Đài, tỉnh Sơn Tây), Nga My Sơn (Thành phố Nga My, tỉnh An Huy), Cửu Hoa Sơn (huyện Thanh Dương, tỉnh An Huy), Phổ Đà Sơn (thành phố Đan Sơn, tỉnh Chiết Giang). Phật giáo Trung Quốc thuộc Đại thừa Phật giáo. Phật giáo Đại thừa lại tôn sùng 4 vị Bồ Tát lớn là Văn Thù, Phổ Hiền, Địa Tàng và Quan Âm và cho rằng Văn Thù Bồ Tát có “đại tri”, Phổ hiền Bồ Tát có “đại hạnh”, Địa Tàng Bồ Tát có “đại nguyện”, Quan Thái Âm Bồ Tát có “đại từ”. Họ lần lượt hiến linh thuyết pháp ở khắp nơi trên đất Trung Quốc và hình thành nên 4 ngọn núi nói trên.

Tương truyền, Ngũ Đài Sơn là nơi hiển linh thuyết pháp của Văn thù Bồ Tát. Người ta bắt đầu xây dựng chùa trên núi này vào triều Đông Hán, đến thời Nam Bắc triều đã có hơn 200 ngôi chùa đã xây trên núi này. Sau triều Tống, số lượng bị thu hẹp và giảm đi nhiều, đến triều Thanh thì chỉ còn lại


11 Tạp chí du lịch Trung Quốc: www.dulichtrungquoc.vn/van-hoa-nghe-thuat.html

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/06/2022