Nền Văn Minh Cổ Xưa Trên Lưu Vực Sông Ấn (3.000-1.800 Tcn)


1.1.2.1. Nền văn minh cổ xưa trên lưu vực sông Ấn (3.000-1.800 TCN)

Các nhà khảo cổ đã tìm ra cái nôi đầu tiên của Ấn Độ tại lưu vực sông Ấn. Tại đây người ta tìm thấy những pho tượng một người đàn ông trong tư thế suy tưởng gợi đến môn phái Yoga. Rất nhiều hiện vật được tìm thấy ở khu vực Harappa và Mohenjo có niên đại từ 3.000 dến 1.800 TCN. Những tìm tòi gần đây hé mở phần nào về sự lan tỏa của nền văn minh lưu vực sông Ấn rộng lớn về miền Bắc và miền Tây xa xôi cùng với cư dân lưu vực sông Ấn lại có quan hệ gần gũi với văn hóa Dravidia, từng phồn thịnh từ rất lâu ở miền Nam Ấn Độ trước khi người Aryan đặt chân đến.

1.1.2.2. Nền văn minh Vêđa (1.600-thế kỷ I TCN)

Ở vào khoảng thời gian 100 đến 1.600 TCN, một chi của dòng họ Aryan rộng lớn, thường được gọi là người Indo-Aryan, di cư đến Ấn Độ. Họ đem theo cùng với họ là tiếng Phạn và một tôn giáo dựa trên nghi lễ hiến tế các vị thần tượng trưng cho các thế lực của thiên nhiên như Indra, thần mưa và sấm, thần Agni (lừa) và Varuma, chúa tể của các sông biển và mùa màng. Những bài ngợi ca vị thần ấy được tập hợp lại thành bốn tập Kinh Veda. Lâu đời nhất là tập Rigveda (1.500-1.200 TCN) Đặc điểm của Kinh Veda là hướng con người đến tư tưởng cao cả, văn phong đẹp đẽ và bước chuyển những nghi thức từ bên ngoài vào kinh nghiệm nội tại. Thời kỳ này chính là thời kỳ có thuyết nói rằng cùng với nó là sự ra đời Đức Phật

Vào năm 326 TCN Alexandros người Macedonia vượt sông Indus và đánh thắng một trận quyết định và rút về. Cuộc xâm lăng của ông đã để lại dấu ấn của thế giới Hy Lạp, nâng văn hóa Ấn Độ lên mới.

Vào năm 320 TCN. Chandragup-ta Maurya (hoàng đế Maurya) thống nhất trở lại toàn bộ các bộ lạc rời rạc và thành lập chế độ tập quyền, kinh đô được đặt tại Pataliputra (bang Bihar là một bang ở Tây Bắc Ấn Độ).

1.1.2.3. Đế chế Gupta


Thời kỳ hoàng kim của nền văn minh Ấn Độ thuộc vào thời kỳ đế chế Gupta. Thời kỳ này có nhiều thành tựu nổi bật về văn hóa trồng trọt. Thời kỳ này nền văn minh Ấn độ đã để lại cho nhân loại một khối lượng các di sản khổng lồ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

1.1.3. Thành tựu chính của Văn minh Ấn Độ

1.1.3.1 Chữ viết, văn học

Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đối với kiến trúc và điêu khắc Phật giáo Trung Quốc - 3

Thời đại Harappa-Môhenjô Đarô, ở miền Bắc Ấn đã xuất hiện một loại chữ cổ mà ngày nay người ta còn lưu giữ được khoảng 3.000 con dấu có khắc những kí hiệu đồ họa.

Thế kỉ VII TCN, ở đây đã xuất hiện chữ Brami, ngày nay còn khoảng 30 bảng đá có khắc loại chữ này. Trên cơ sở chữ Brami, thế kỉ V TCN ở Ấn Độ lại xuất hiện chữ Sanscrit, đây là cơ sở của nhiều loại chữ viết ở Ấn Độ và Đông Nam Á sau này.

Hai tác phẩm văn học nổi bật thời cổ đại là Mahabharata và Ramayana. Mahabharata là bản trường ca gồm 220.000 câu thơ. Bản trường ca này nói về một cuộc chiến tranh giữa các con cháu Bharata. Bản trường ca này có thể coi là một bộ “bách khoa toàn thư” phản ánh mọi mặt về đời sống xã hội Ấn Độ thời đó.

Ramayana là một bộ sử thi dài 48.000 câu thơ, mô tả cuộc tình giữa chàng hoàng tử Rama và công chúa Xita (con của nữ thần mẹ đất). Thiên tình sử này ảnh hưởng tới văn học dân gian một số nước Đông Nam Á. Riêmkê ở Campuchia, Ramakiên ở Thái Lan chắc chắn có ảnh hưởng từ Ramayana.

Thời cổ đại ở Ấn Độ còn có tập ngụ ngôn Năm phương pháp chứa đựng rất nhiều tư tưởng được gặp lại trong ngụ ngôn của một số dân tộc Á-Âu.

1.1.3.2. Nghệ thuật

Ấn Độ là nơi có nền nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ, ảnh hưởng tới nhiều nước Đông Nam Á. Nghệ thuật Ấn Độ cổ đại hầu hết đều phục vụ một


tôn giáo nhất định, do yêu cầu của tôn giáo đó mà thể hiện. Có thể chia ra ba dòng nghệ thuật: Hinđu giáo, Phật giáo, Hồi giáo.

Có rất nhiều chùa tháp Phật giáo, nhưng đáng kể đầu tiên là dãy chùa hang Ajanta ở miền trung Ấn Độ. Đây là dãy chùa được đục vào vách núi, có tới 29 gian chùa, các gian chùa thường hình vuông và nhiều gian mỗi cạnh tới 20m. Trên vách hang có những bức tượng Phật và nhiều bích hoạ rất đẹp.

Các công trình kiến trúc Hinđu giáo được xây dựng nhiều nơi trên đất Ấn Độ với mầu sắc nghệ thuật tỷ mỉ và được xây dựng nhiều vào khoảng thế kỉ VII - XI. Tiêu biểu cho các công trình Hinđu giáo là cụm đền tháp Khajuraho ở Trung Ấn, gồm tất cả 85 đền xen giữa những hồ nước và những cánh đồng.

Những công trình kiến trúc Hồi giáo nổi bật ở Ấn Độ là tháp Mina, được xây dựng vào khoảng thế kỉ XIII và lăng Taj Mahan được xây dựng vào khoảng thế kỉ XVII.

1.1.3.3. Khoa học tự nhiên

a. Về Thiên văn: Người Ấn Độ cổ đại đã làm ra lịch, họ chia một năm ra làm 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. (Như vậy năm bình thường có 360 ngày). Cứ sau 5 năm thì họ lại thêm vào một tháng nhuận.

b. Về Toán học: Người Ấn Độ thời cổ đại chính là chủ nhân của hệ thống chữ số mà ngày nay ta quen gọi là số Arập. Đóng góp lớn nhất của họ là đặt ra số không, nhờ vậy mọi biến đổi toán học trở thành đơn giản, ngắn gọn hẳn lên. (Người Tây Âu vì vậy mà từ bỏ số La Mã mà sử dụng số Arập trong toán học.) Họ đã tính được căn bậc 2 và căn bậc 3; đã có hiểu biết về cấp số, đã biết về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác Pi = 3,1416.

c. Về Vật lí: Người Ấn Độ cổ đại cũng đã có thuyết nguyên tử. Thế kỉ V TCN, có một nhà thông thái ở Ấn Độ đã viết “...Trái Đất, do trọng lực của bản thân đã hút tất cả các vật về phía nó”[43,751].


d. Y học: Cũng khá phát triển. Người Ấn Độ cổ đại đã mô tả các dây gân, cách chắp ghép xương sọ, cắt màng mắt, theo dòi quá trình phát triển của thai nhi. Họ để lại hai quyển sách là “Y học toát yếu” và “Luận khảo về trị liệu” [42,751].

1.1.4. Tư tưởng, tôn giáo


Ấn Độ là nơi sản sinh ra nhiều tôn giáo như đạo Balamôn, đạo Phật, đạo Jain và đạo Sikh.

1.1.4.1. Đạo Balamôn


Đạo Balamôn ra đời trong hoàn cảnh đang có sự bất bình đẳng rất sâu sắc về đẳng cấp và đạo này chứng minh cho sự hợp lí của tình trạng bất bình đẳng đó [44,7].

1.1.4.2. Đạo Phật


Đạo Phật ra đời vào khoảng giữa thiên niên kỉ I TCN do thái tử Xitđacta Gôtama, hiệu là Sakya Muni (Thích Ca Mâu Ni) khởi xướng [47,17]. Các tín đồ Phật giáo lấy năm 544 TCN là năm thứ nhất theo Lịch Phật, họ cho là đây là năm Đức Phật nhập Niết bàn. (Vì vậy, những người châu Á theo đạo Phật trước kia vẫn để ý đến ngày qua đời hơn ngày ra đời, khác hẳn những người theo đạo Thiên chúa). Giáo lí cơ bản của đạo Phật là Tứ diệu đế (bốn điều)3.

1.1.4.3. Đạo Jain-Kỳ Na


Đạo Jain-Kỳ Na cũng xuất hiện vào khoảng thế kỉ VI TCN. Đạo này chủ trương không sát sinh một cách cực đoan và nhấn mạnh sự tu hành khổ hạnh [43,17].



3 Tứ diệu đế, còn gọi là tứ thánh đế, là bốn chân lý cao cả, là gốc cơ bản của Phật giáo. Tứ diệu đế là nội dung của kinh nghiệm giác ngộ của Phật Thích Ca Mâu Ni và cũng là nội dung chính của bài kinh đầu tiên, kinh chuyển pháp luân. Tứ diệu đế gồm: Khổ đế, Tập khổ đế, Diệu đế và Đạo đế


1.1.4.4. Đạo Sikh


Đạo Sikh xuất hiện ở Ấn Độ vào khoảng thế kỉ XV. Giáo lí của đạo Xích có sự kết hợp giáo lí của đạo Hinđu và giáo lí của đạo Islam. Tín đồ đạo Xích tập trung rất đông ở bang Punjap và ngôi đền thiêng liêng của họ là ngôi đền Vàng ở Punjapd. Đạo Balamôn là đạo sinh ra cuối cùng [48,81].

1.2. THỜI ĐIỂM, ĐIỀU KIỆN VÀ CÁC BƯỚC DU NHẬP CỦA PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀO TRUNG QUỐC

1.2.1. Thời điểm Phật giáo Ấn Độ du nhập vào Trung Quốc


Có nhiều cách nói khác nhau, các sách cũng có sự ghi chép khá lộn xộn và mâu thuẫn về thời gian Phật giáo được truyền vào Trung Quốc. Phổ biến có thể kể đến những quan điểm sau:

Có người nói Phật giáo được truyền vào Trung Quốc từ thời Yến Chiêu Vương thuộc thời kì Chiến Quốc, có người nói được truyền vào từ thời Tần Thủy Hoàng, có người nói được truyền vào từ thời Hán Vũ Đế, có người nói được truyền vào từ những năm cuối thời triều Tây Hán, cũng có người nói được truyền vào từ thời Minh Đế thuộc triều Đông Hán… Cách nói khá phổ biến trước đây cho rằng, Phật giáo được truyền vào từ Trung Quốc từ năm Hán Vũ Đế thủy Bình thứ 10. Cách nói này được phát hiện trong cuốn “Mâu Tử lý hoặc luận” và “Tứ Thập Nhị chương kinh” vào những năm cuối triều Đông Hán, sau đó lại được đăng trong sách sử “Hậu Hán thư” [6,143]. Cách nói này rất phổ biến vào thời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều. Đại ý nói rằng, vào năm Thủy Bình thứ 7 (năm 64 sau CN), Hán Minh Đế ban đêm nằm mơ thấy có một vị thần tiên mang theo ánh mặt trời bay trước cung điện nhà vua, hôm sau nhà vua hỏi quần thần đó là thần gì? Đại thần Phó Nghị trả lời rằng hạ thần nghe nói ở Phương Tây có một vị thần tên là “Phật”, vị thần đó có thể bay lượn và tỏa ra ánh sáng. Vì thế Hán Minh Đế liền cử trung lang tướng


Thái Âm và tiến sĩ Tần Cảnh đến phương Tây cầu kinh. Năm Thủy Bình thứ 10, hai người trên đã gặp được các nhà sư Ấn Độ Kasyapamatanga và Dharmaratna ở nước Đại Nguyệt Thị của Tây Vực, đồng thời lấy được kinh Phật, sau đó họ chuyển chở sách kinh bằng ngựa trắng về đề Bạch Mã ở Lạc Dương. Hán Minh Đế mời 2 nhà sư Ấn Độ sống ở chùa Hồng Lư (cơ quan tiếp đón lễ tân của triều đình), đồng thời chọn đất xây dựng miếu để thờ cúng, đó chính là chùa Bạch Mã ngày nay. Hai nhà sư Ấn Độ trên đã dịch cuốn kinh Phật gồm 42 chương, tương truyền đây là cuốn kinh Phật có thời gian ra đời sớm nhất ở Trung Quốc.

Nhưng các học giả Trung Quốc ở nước ngoài từ thời cận đại cho đến nay vẫn rất hoài nghi về cách nói này, vì chuyện Hán Minh Đế nằm mơ và chuyện cử người đi lấy kinh phật rất kì lạ. Theo “Hậu Hán thư”, người em trai cùng cha khác mẹ của Minh Đế là Sở Vương Lưu Anh có lập đền thờ trong nhà để thờ Phật, hai anh em họ rất thân mật với nhau, vì vậy Minh Đế phải biết sự tồn tại của Phật, nhưng vì sao ông lại chỉ mơ thấy và cử người đi cầu kinh? Còn chuyện sứ thần của Minh Đế được cử đi lấy kinh, có người nói đó là Trương Kiên (người của thời Hán Vũ Đế), cũng có người nói đó là Thái Âm, thứ ba là Phó Nghị - người giải thích giấc mộng cho Hán Minh Đế. “Hậu Hán Thư” có nói, ông chỉ là một đứa trẻ đang đi học thời Minh Đế. Vì vậy họ cho rằng việc cầu kinh của Minh Đế không phải là sự thật, còn chuyện chuyên chở sách kinh bằng bạch mã và hai nhà sư Ấn Độ dịch kinh đều do các Phật gia sau này bịa đặt ra để chứng minh bản thân họ là những người phi phàm xưa nay.

Các học giả hiện nay đều cho rằng Phật giáo được truyền vào Trung Quốc vào những năm cuối triều Tây Hán hoặc vào khoảng giữa thời Lưỡng Hán, đây là cách nói khá tin cậy. Cuốn “Trung Quốc Phật giáo sử” do Nhiệm Kế Dũ chủ biên và cuốn “Giản minh Trung Quốc phật giáo sử” của học giả


Nhật Bản Liêm Điền Mậu Hùng đều có quan điểm này. Căn cứ chủ yếu của họ là cuốn “Tam Quốc chí chú”, trong tác phẩm này, Bùi Tùng Chi đã dẫn một đoạn văn trong “Ngụy lược Tây Nhung truyện” của Ngư Hoạn thời Tam Quốc như sau: Vào năm Ai Đế Nguyên Thọ (năm thứ 2 trước Công Nguyên), sư thần nước Đại Nguyệt Thị đã truyền kinh Phật cho tiến sĩ Cảnh Lư. “Hậu Hán thư” cũng nói rằng, người em trai cùng cha khác mẹ của Minh Đế là Sở Vương Lưu Anh có thờ Hoàng Đế, Lão Tử và tượng Phật ở nhà mình, ông còn bỏ tiền ra phụng dưỡng hòa thượng, điều này chứng tỏ Phật giáo đã được lưu truyền trong tập đoàn thống trị thượng tầng vào những năm đầu của triều Đông Hán. Suy đoán theo những tư liệu lịch sử trên thì Phật giáo đã được truyền vào Trung Quốc vào khoảng thời gian giữa thời kỳ Lưỡng Hán4.

Tuy nhiên, ở giai đoạn này, Phật giáo còn gặp phải sự chống đối của văn hóa truyền thống tại Trung Quốc nên chỉ có số ít quí tộc, đại địa chủ tầng lớp trên đón nhận các triết thuyết của nó mà thôi. Để tồn tại, Phật giáo đã phải dựa vào một số phương pháp của Đạo giáo. Ngay cả trong việc bình chú, diễn giải, phiên dịch kinh sách của đạo Phật, người ta cũng phải mượn các thuật ngữ, thần chú của Đạo giáo. Cho nên, đã có thời gian người ta cho rằng Phật giáo chính là một nhánh của Đạo giáo thần tiên.

Trong suốt thế kỷ thứ nhất và thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên, Trung Quốc bị chia năm xẻ bảy bởi vô số các cuộc nổi loạn, các thảm họa về mặt kinh tế. Trải qua giai đoạn Tam Quốc (220-285) và Tấn (265-420), Nam Bắc Triều (420-585), do chiến tranh xảy ra liên miên, đời sống nhân dân vô cùng khổ cực nên họ đã tìm đến các bậc “siêu nhiên thần thánh”, “các đấng Trời, Phật”để mong đợi một sự cứu rỗi. Chính vì thế mà Trung Quốc mới chịu tiếp


4 Hầu Ngoại Lư (1959) “Bàn về tư tưởng cổ đại Trung Quốc”, NXB Sự thật Hà Nội.


nhận những nguyên lý về triết học và tôn giáo không quen thuộc của người hàng xóm của nó ở phía Tây là Ấn Độ.

1.2.2. Điều kiện Phật giáo du nhập vào Trung Quốc


1> Về nền tảng xã hội: Thời kì cuối triều Đông Hán, thiên hạ đại loạn, các giai cấp trong xã hội đều gặp phải rất nhiều khó khăn, vì vậy họ đều muốn tìm được chỗ dựa và sự yên ổn trong đau khổ. Đạo lý tự giải thoát đau khổ và siêu độ cầu sinh của Phật giáo đã đáp ứng được nhu cầu này.

2>Về tư tưởng: Thời kì này, Huyền học cũng đang thịnh hành trong xã hội. Tư tưởng Lão Trang cao thượng của Huyền học đã chủ trương “dĩ vô vi bản, dĩ hữu vi mạt” [Dẫn theo 25,138], phủ nhận sự tồn tại của sự vật ngoại giới, rất dễ hòa hợp với tư tưởng xuất thế của Phật giáo, vì vậy, chủ trương “nhất thiết pháp giai không” của Phật giáo đã thịnh hành một cách nhanh chóng. Trên thực tế, đến sau thời kì Đông Tấn, Huyền học đã mất đi vị thế của nó và bị Phật giáo thay thế. Giáo lý “danh thực câu vô” mà Phật giáo tuyên truyền thực tế là sự phát triển thêm của tư tưởng “dĩ vô vi bản”.

3> Sự đề cao và lợi dụng của giai cấp thống trị. Tư tưởng cơ bản được Phật giáo tuyên truyền rất có lợi, hài hòa cho giai cấp thống trị. Tuy nó không chủ trương trung hiếu tiết nghĩa và an phận thủ thưởng như Nho học nhưng nó yêu cầu các tín đồ Phật giáo phải khắc khổ tu hành để có được tinh thần cơ bản siêu thoát và các giáo lý như báo ứng nhân quả và chuyển thế luận hồi…, nó không những không thể tạp nên sự uy hiếp với trật tự thống trị mà ngược lại còn có ích cho việc bảo vệ trật tự này. Trong thời gian 500 năm từ thời Đông Hán đến thời kì Nam Bắc Triều, giai cấp thống trị đã dần nhận thức được tác dụng của Phật giáo, vì vậy họ ngày càng coi trọng và đề cao Phật giáo. Có một số nhà thống trị do quá mê tín đã hết mực tôn sùng Phật giáo, thường mời các nhà sư nổi tiếng vào cũng giảng kinh hoặc khai phá đất đai để xây chùa cho họ (Tấn Thành Đế, Ai Đế thời Đông Tấn). Tổng Văn Đế của

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 11/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí