Phương Thức Thâm Nhập Của Ngân Hàng Nước Ngoài



Tóm lại, các lý thuyết giải thích động cơ thâm nhập của NHNNg đều cho rằng cơ sở để một NHNNg thâm nhập vào một quốc gia là ngân hàng đó sở hữu lợi thế về công nghệ, sức mạnh tài chính, uy tín, nguồn nhân lực và kỹ năng quản trị hiệu quả, và động cơ cho việc thâm nhập của NHNNg là theo sau khách hàng và tìm kiếm lợi nhuận. Nếu động cơ thâm nhập của NHNNg là theo sau khách hàng thì NHNNg sẽ ít cạnh tranh trực tiếp đối với các ngân hàng trong nước, còn trong trường hợp động cơ thâm nhập của NHNNg là tìm kiếm lợi nhuận sẽ tạo ra sức ép cạnh tranh rất lớn lên các ngân hàng trong nước.

2.1.3. Phương thức thâm nhập của ngân hàng nước ngoài


NHNNg thường sử dụng 2 phương thức thâm nhập vào một quốc gia là phương thức thành lập cơ sở kinh doanh mới và phương thức mua lại và sáp nhập (Clarke, 2005; Slangen và Hennart, 2008).

Phương thức thành lập cơ sở kinh doanh mới được thực hiện dưới hình thức mở văn phòng đại diện, chi nhánh NHNNg, thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài hoặc ngân hàng liên doanh. Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc hoạt động trên cơ sở vốn và uy tín của ngân hàng mẹ ở nước ngoài; chi nhánh NHNNg cũng là đơn vị phụ thuộc, không có tư cách pháp nhân, được NHNNg bảo đảm chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ, cam kết của chi nhánh NHNNg ở nước nhận đầu tư; khác với văn phòng đại diện và chi nhánh, ngân hàng con 100% vốn nước ngoài và ngân hàng liên doanh có tư cách pháp nhân, hoạt động trên vốn tự có của mình.

Cerutti và cộng sự (2007) cho rằng các NHNNg sẽ hoạt động dưới hình thức chi nhánh nếu nước nhận đầu tư có quy định hạn chế NHNNg thâm nhập và có mức thuế cao hơn nước đầu tư, và hình thức ngân hàng con thường được áp dụng trong trường hợp NHNNg muốn kinh doanh bán lẻ. Trong khi đó, Makino và cộng sự (2007) cho rằng NHNNg có thể thâm nhập bằng hình thức thành lập ngân hàng liên doanh với ngân hàng trong nước, với hình thức này NHNNg sẽ tiết kiệm được chi phí điều tra thị trường, tư vấn chính sách và tìm hiểu môi trường kinh doanh có liên quan đến ngành ngân hàng trong nước.



Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.

Kim và Gray (2009) cho rằng nếu hoạt động của ngân hàng trong nước phát triển mạnh mẽ và văn hóa kinh doanh của ngân hàng trong nước và NHNNg không tương đồng, thì NHNNg sẽ thâm nhập bằng phương thức thành lập cơ sở kinh doanh mới. Ưu điểm của phương thức thành lập cơ sở kinh doanh mới là tránh được việc kế thừa những tồn tại từ tổ chức cũ như các hợp đồng cho vay chưa giải ngân, sự khác biệt về cơ cấu tổ chức, văn hóa kinh doanh và hệ thống công nghệ không tương thích (Dikova và Van Witteloostuijn, 2007; Slangen và Hennart, 2008). Tuy nhiên, phương thức này có nhược điểm là NHNNg mất nhiều thời gian để am hiểu thị trường, xây dựng thương hiệu, và thiết lập mối quan hệ với khách hàng.

Phương thức mua lại và sáp nhập được thực hiện thông qua việc NHNNg tiến hành mua lại và sáp nhập với một ngân hàng sẵn có trong nước. Phương thức này thường được sử dụng khi thị trường chứng khoán của nước thu hút đầu tư đã được hình thành và phát triển, các NHNNg ít am hiểu về thị trường ngân hàng nội địa (Bhaumik và Gelb, 2003). Phương thức mua lại và sáp nhập có ưu điểm là tận dụng được uy tín và lượng khách hàng sẵn có, nhưng có nhược điểm là rất khó dung hòa sự khác biệt trong văn hóa tổ chức và phương thức hoạt động giữa các bên với nhau.

Ảnh hưởng của thâm nhập ngân hàng nước ngoài đến cạnh tranh và hiệu quả của các NHTM Việt Nam - 4

Theo Van Tassel và Vishwasrao (2007) NHNNg thích thâm nhập bằng phương thức mua lại và sáp nhập hơn lập cơ sở kinh doanh mới, vì chi phí cho việc xử lý các tồn tại của tổ chức cũ trong hoạt động mua lại và sáp nhập thường thấp hơn các lợi ích có được từ việc sở hữu nguồn dữ liệu sẵn có về khách hàng, kiến thức thị trường và uy tín đã được xây dựng từ trước.


2.1.4. Đo lường thâm nhập của ngân hàng nước ngoài


Có 2 phương pháp đo lường thâm nhập của NHNNg là phương pháp tổng hợp và phương pháp không gian phân bổ. Phương pháp tổng hợp đo lường thâm nhập của NHNNg bằng tỷ lệ số lượng và tỷ lệ tài sản của NHNNg.


Tỷ lệ số lượng NHNNg =

Số lượng NHNNg

Tổng số ngân hàng của toàn ngành



Tỷ lệ tài sản NHNNg =

Tài sản NHNNg

Tổng tài sản của toàn ngành


Phương pháp tổng hợp được nhiều nghiên cứu thực nghiệm sử dụng (Barajas và cộng sự, 2000; Claessens và cộng sự, 2001; Claessens và Lee, 2003; Denizer, 2000; Lensink và Hermes, 2004; Lien và cộng sự, 2015; Pham và Nguyen, 2020; Manlagđit, 2011; Shen và cộng sự, 2009; Unite và Sullivan, 2003).

Phương pháp không gian phân bổ đo lường thâm nhập của NHNNg thông qua chỉ số tiếp xúc giữa NHNNg và ngân hàng trong nước. Xu (2011) là người đầu tiên đề xuất phương pháp không gian phân bổ khi xây dựng chỉ số tiếp xúc thay cho phương pháp tổng hợp, vì cho rằng phương pháp tổng hợp chỉ nắm bắt sự hiện diện của NHNNg ở phạm vi tổng thể, không phản ánh mức độ tiếp xúc về mặt địa lý của một ngân hàng cụ thể trong nước với NHNNg. Chỉ số tiếp xúc được tính bằng tỷ lệ giữa số chi nhánh NHNNg tại một địa phương với tổng số chi nhánh NHNNg mà một ngân hàng trong nước tiếp xúc. Luo và cộng sự (2017) đã bổ sung cách tính chỉ số tiếp xúc để xác định chính xác mức độ tiếp xúc qua mạng lưới chi nhánh. Chỉ số tiếp xúc chi nhánh được tính bằng tỷ lệ giữa tổng số chi nhánh NHNNg tại tất cả các địa phương mà một ngân hàng trong nước có chi nhánh với tổng số chi nhánh NHNNg mà một ngân hàng trong nước tiếp xúc. Phương pháp không gian phân bổ được phát triển gần đây và chú trọng nhiều đến yếu tố tiếp xúc về mặt địa lý giữa NHNNg và ngân hàng trong nước, tuy nhiên điều kiện để áp dụng phương pháp này là trong giai đoạn nghiên cứu các NHNNg không bị giới hạn trong việc mở chi nhánh, và có đầy đủ thông tin dữ liệu về mạng lưới chi nhánh của NHNNg và ngân hàng trong nước.

Do trong giai đoạn nghiên cứu 2009 – 2019, các chi nhánh NHNNg bị giới hạn trong việc mở chi nhánh, cũng như không có thông tin dữ liệu về quá trình thành lập chi nhánh của các NHTM trong nước và NHNNg, nên nghiên cứu không sử dụng phương pháp không gian phân bổ, mà sử dụng phương pháp tổng hợp để đo lường thâm nhập của NHNNg tại Việt Nam trong phân tích ảnh hưởng của thâm nhập NHNNg đến hiệu quả của các NHTM Việt Nam.



2.2. ẢNH HƯỞNG CỦA THÂM NHẬP NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI ĐẾN CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG TRONG NƯỚC

2.2.1. Khái niệm cạnh tranh


Có nhiều quan điểm khác nhau về cạnh tranh nói chung và cạnh tranh trong kinh doanh nói riêng. Các nhà kinh tế học cổ điển nhìn nhận cạnh tranh là một quá trình mà các đối thủ ganh đua để giành thị phần, và quá trình cạnh tranh tự do sẽ tạo ra lực cân bằng thị trường, dẫn đến giá sản phẩm bằng chi phí sản xuất trong dài hạn.

Theo Stigler (1957) cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể, và nó phát sinh bất cứ khi nào hai hoặc nhiều bên cố gắng vì điều gì đó mà tất cả đều không thể có được.

Porter (1989) cho rằng cạnh tranh trong kinh doanh là giành lấy thị phần, và mục tiêu của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có.

Như vậy có thể hiểu cạnh tranh là quá trình mà các chủ thể kinh tế ganh đua để giành lấy thị phần nhằm thu được nhiều lợi ích nhất.

2.2.2. Lý thuyết cấu trúc cạnh tranh ngành


Lý thuyết cấu trúc cạnh tranh ngành được hoàn thiện từ cuối những năm 1990 từ công trình nghiên cứu Porter (1989). Theo lý thuyết này, mức độ cạnh tranh trên thị trường trong một ngành (hay một thị trường cụ thể) chịu tác động của 5 yếu tố sau đây:

Thứ nhất, sự xuất hiện của các công ty (ngân hàng) mới. Khi có sự thâm nhập của các ngân hàng mới sẽ dẫn đến việc chia sẻ thị phần hiện có. Điều này có thể ảnh hưởng đến mức độ cạnh tranh của thị trường ngân hàng. NHNNg sở hữu nhiều lợi thế như tiềm lực tài chính mạnh, công nghệ hiện đại, kỹ năng quản trị hiệu quả, sản phẩm dịch vụ mới, do đó, NHNNg trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp với các ngân



hàng trong nước, và hoạt động của NHNNg sẽ làm tăng mức độ cạnh tranh của thị trường ngân hàng nội địa.

Thâm nhập của ngân hàng mới phụ thuộc vào các rào cản gia nhập ngành. Các rào cản gia nhập là những quy định đặc trưng của một ngành. Các rào cản này có thể do chính phủ tạo nên, hoặc do một số yếu tố đặc thù của ngành tạo ra. Đối với ngành ngân hàng, các rào cản gia nhập chủ yếu do chính phủ thiết lập.

Thứ hai, cạnh tranh giữa các đối thủ hiện có trong ngành. Mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng đang hoạt động sẽ ảnh hưởng đến cấu trúc cạnh tranh của thị trường. Nếu quy mô giữa các ngân hàng chênh lệnh nhau nhiều thì áp lực cạnh tranh thấp, vì các ngân hàng nhỏ biết không thể cạnh tranh với ngân hàng lớn nên sẽ tập trung vào phân khúc khách hàng có đặc điểm riêng, mà các ngân hàng lớn không nhắm đến. Nếu tất cả các ngân hàng đều có quy mô tương đồng thì khách hàng là đồng nhất, do đó, khách hàng có thể chuyển dịch từ ngân hàng này sang ngân hàng khác dẫn tới sự dành giật khách hàng, đẩy áp lực cạnh tranh tăng cao.

Thứ ba, sức mạnh của nhà cung ứng. NHTM là một trung gian tài chính, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Vì vậy, nhà cung ứng đầu vào của ngân hàng chính là khách hàng gửi tiền. Sức mạnh của nhà cung cấp thể hiện khả năng quyết định các điều kiện giao dịch của khách hàng gửi tiền đối với ngân hàng. Những khách hàng gửi tiền với giá trị thấp có thể phải chấp nhận các điều khoản mà ngân hàng đưa ra, nhờ đó ngân hàng giảm được chi phí lãi, ngược lại, những khách hàng lớn có thể gây sức ép đối với ngân hàng bằng nhiều cách, chẳng hạn yêu cầu được trả mức lãi suất cao hơn.

Thứ tư, sức mạnh của người mua. Người mua của ngân hàng chính là khách hàng vay vốn và sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Sức mạnh của khách hàng chính là ảnh hưởng của khách hàng đối với ngân hàng. Về mặt lý thuyết, khi sức mạnh khách hàng lớn thì sẽ dẫn đến độc quyền mua. Trong điều kiện thị trường như vậy, khách hàng có khả năng áp đặt giá.



Thứ năm, các sản phẩm và dịch vụ thay thế. Sản phẩm và dịch vụ thay thế trong mô hình của Porter là do các ngành khác cung cấp, khi một ngành có nhiều sản phẩm thay thế thì sẽ chịu sự cạnh tranh của các ngành sản xuất sản phẩm, dịch vụ thay thế. Trong ngành ngân hàng, vì sản phẩm của ngân hàng có một số đặc thù riêng, do đó, yếu tố này thường ít ảnh hưởng đến mức độ cạnh tranh ngành. Tuy vậy, sự phát triển của thị trường tài chính tạo ra nhiều kênh huy động vốn cho doanh nghiệp, điều này có thể ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng.

Tóm lại, mô hình 5 yếu tố của Porter cung cấp cơ sở lý thuyết cho vấn đề nghiên cứu ảnh hưởng của thâm nhập NHNNg đến cạnh tranh của các NHTM trong nước. Theo đó, quá trình thâm nhập của NHNNg sẽ làm xuất hiện các ngân hàng mới tham gia vào thị trường và tạo ra sự cạnh tranh, từ đó ảnh hưởng đến mức độ cạnh tranh của ngành ngân hàng trong nước.


2.2.3. Cạnh tranh trong thị trường ngân hàng thương mại


2.2.3.1. Đặc điểm cạnh tranh trong thị trường ngân hàng thương mại


Mục này trình bày đặc điểm cạnh tranh trong thị trường NHTM, từ đó cho thấy sự khác biệt trong cạnh tranh của thị trường NHTM với các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Giống như những ngành kinh tế khác, các NHTM trong quá trình kinh doanh cũng tiến hành cạnh tranh gay gắt với nhau để chiếm lĩnh thị phần, gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên, do vai trò và chức năng đặc biệt của ngành ngân hàng, ngoài những điểm chung giống như sự cạnh tranh trong các lĩnh vực khác, cạnh tranh trong thị trường ngân hàng có những điểm khác biệt sau đây:

Thứ nhất, cạnh tranh trong thị trường NHTM có sự giám sát chặt chẽ của Chính phủ (Sheng, 1990). Do hoạt động của các NHTM liên quan đến tất cả các chủ thể, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế, cho nên, để tránh tình trạng cạnh tranh bằng mọi giá gây bất ổn hệ thống, chính phủ các nước đều có sự giám sát chặt chẽ hoạt động cạnh tranh giữa các NHTM. Allen và Gale (2000b) cho rằng sự ổn định của hệ thống ngân hàng là rất quan trọng, bởi vì bất kỳ sự bất ổn nào đều có



thể ảnh hưởng đến thị trường cho vay liên ngân hàng và tín dụng, từ đó dẫn đến suy thoái kinh tế. Việc kiểm soát sự cạnh tranh của các ngân hàng được thực hiện thông qua chính sách tiền tệ với các công cụ như hoạt động thị trường mở, công cụ lãi suất, dữ trữ bắt buộc và các chính sách kiểm soát khác (Ghossoub và cộng sự, 2012).

Thứ hai, cạnh tranh trong thị trường NHTM đi đôi với hợp tác lẫn nhau (Khanizad và Montazer, 2018). Trong quá trình tác nghiệp kinh doanh như kết nối thanh toán, hoạt động trên thị trường liên ngân hàng, liên kết cho vay, các NHTM thường có mối quan hệ hợp tác với nhau. Một ngân hàng không thể tự mình hoạt động bình thường nếu không có mối quan hệ liên kết với các ngân hàng khác trên thị trường. Do vậy, hoạt động kinh doanh của các NHTM vừa mang tính cạnh tranh, vừa mang tính hợp tác với nhau.

Thứ ba, thị trường ngân hàng thường có giới hạn về số lượng đối thủ cạnh tranh và rào cản gia nhập ngành cao (Alhadeff, 1974). Ngành ngân hàng giữ vị trí quan trọng là huyết mạch của nền kinh tế, là trung gian tài chính gắn liền với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế, hoạt động của ngân hàng bao trùm tất cả các hoạt động kinh tế, xã hội. Ngân hàng không trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế, song, giữ một vai trò quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế. Do đó, chính phủ các nước đều ban hành các quy định chặt chẽ về việc thành lập và giải thể ngân hàng, nhằm tránh tổn thất cho nền kinh tế và công chúng.

2.2.3.2. Tác động của cạnh tranh đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng thương mại

Cạnh tranh sẽ tạo ra tác động nhiều mặt đối với hoạt động của các NHTM. Về mặt lý thuyết có 2 quan điểm khác nhau về tác động của cạnh tranh đối với hệ thống ngân hàng là cạnh tranh – bất ổn và cạnh tranh - ổn định.

Quan điểm cạnh tranh – bất ổn cho rằng cạnh tranh sẽ làm suy giảm tính ổn định của hệ thống ngân hàng. Cạnh tranh buộc các NHTM phải giảm lãi suất cho vay và phí dịch vụ, tăng lãi suất huy động, dẫn đến lợi nhuận giảm (Bolt và Tieman, 2004). Nếu cạnh tranh diễn ra gay gắt, các NHTM có xu hướng hạ thấp tiêu chuẩn



cho vay để tìm kiếm khách hàng, dẫn đến rủi ro vỡ nợ, tăng nguy cơ phá sản đối với ngân hàng, gây mất ổn định hệ thống ngân hàng (Keeley, 1990). Cạnh tranh với sự tham gia của nhiều ngân hàng là điều kiện lý tưởng cho sự lan truyền các cú sốc tài chính (Allen và Gale, 2000a). Tự do hóa tài chính dưới hình thức chuyển đổi dần từ trạng thái độc quyền sang cạnh tranh có thể gia tăng sự bất ổn của hệ thống ngân hàng (Chang và Velasco, 2001).

Quan điểm cạnh tranh - ổn định cho rằng cạnh tranh không phải là yếu tố gây bất ổn cho hệ thống ngân hàng. Cạnh tranh sẽ góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ. Trong điều kiện cạnh tranh, các NHTM muốn tồn tại và phát triển phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ để thu hút khách hàng bằng nhiều biện pháp như gia tăng tiềm lực tài chính, đầu tư đổi mới công nghệ, hoàn thiện quy trình cung cấp dịch vụ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo uy tín, thương hiệu và vị thế trên thị trường. Ở khía cạnh này, cạnh tranh sẽ làm cho hoạt động của ngành ngân hàng ngày càng lành mạnh và hiệu quả. Ngoài ra, nếu ngân hàng gặp phải những vấn đề liên quan đến rủi ro đạo đức dẫn tới phải đối mặt với rủi ro về thanh khoản thì việc ngân hàng đó đứng trước nguy cơ phá sản trong một môi trường đầy tính cạnh tranh là cần thiết để ngân hàng điều chỉnh hành vi và cách thức hoạt động phù hợp hơn.

Caminal và Matutes (2002) cho rằng cạnh tranh là cần thiết để tăng cường ổn định hệ thống ngân hàng do khắc phục được những hạn chế của thị trường độc quyền. Hệ thống ngân hàng có mức độ tập trung thấp hạn chế nguy cơ khủng hoảng tài chính. Thị trường độc quyền sẽ hình thành nên các ngân hàng quá lớn, và làm phát sinh vấn đề quá lớn để sụp đổ và quá lớn để giám sát. Lập luận quá lớn để sụp đổ cho rằng các ngân hàng quá lớn trở nên quá trọng yếu đối với nền kinh tế, và nếu sụp đổ sẽ tạo ra chi phí xã hội rất lớn, do đó chính phủ buộc phải cứu trợ khi các ngân hàng này có nguy cơ phá sản. Các ngân hàng này sẵn sàng chấp nhận rủi ro quá mức khi biết rằng sẽ được chính phủ cứu trợ nếu thất bại. Điều này sẽ dẫn đến sự bất ổn của hệ thống ngân hàng.

Xem tất cả 216 trang.

Ngày đăng: 11/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí