Ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hoá dân gian Việt Nam - 9


dân như con; Một Lý Nhân Tông tha tội chết cho Thái sư Lê Văn Thịnh khi hoá cọp để hại mình; Một Lý Thường Kiệt sẵn sàng nhường chức Tể tướng của triều đình để cầm quân trấn giữ biên giới phía Nam của Tổ quốc; Một Trần Thái Tông bỏ ngai vàng như trút chiếc giày rách; Một Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con, rồi chống gậy đi khắp nơi giáo hoá dân chúng, trở thành vị Phật của nước Đại Việt; Một Trần Hưng Đạo vì nợ nước mà quên thù nhà... Rồi những con người như An Tư công chúa, Trần Bình Trọng,… đều thể hiện rò nét tinh thần của thời đại. Thời ấy, có rất nhiều Thiền sư, Nho sĩ, Đạo sĩ tận tụy hy sinh cho đất nước, tốt đời đẹp đạo và nhiều ngôi đền, ngôi chùa lại thờ các vị anh hùng dân tộc cùng thờ Mẫu. Đây là sự hỗn dung văn hóa Việt -Ấn - Hoa cùng quan niệm tam giáo Phật - Nho - Đạo đồng nguyên.

Phật giáo có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tín ngưỡng dân gian Việt Nam, điều này được thể hiện qua các tập tục tín ngưỡng dân gian trong đời sống tinh thần của người dân Việt.

Qua một số tập tục tín ngưỡng tiêu biểu, ta có thể thấy rò tư tưởng Phật giáo thấm sâu vào cuộc sống, quan niệm và tâm lý người Việt, trở thành một phần vốn có trong truyền thống, trong bản chất của họ. Đổi lại, các nghi thức cúng tế trong Phật giáo cũng đã dần dần thâm nhập vào các tập tục dân gian theo tín ngưỡng bản địa ấy, làm biến đổi từ mục đích đơn giản ban đầu để trở thành những tập tục có ý nghĩa, thăng hoa hơn, mang tính chất chuyển tải triết lí đạo Phật vào thực tế đời sống, tạo nên một bản sắc văn hóa tín ngưỡng của cư dân Việt Nam.

Mối quan hệ giữa tín ngưỡng Phật giáo với tập tục tín ngưỡng văn hóa dân gian là không nhỏ. Để làm sáng tỏ sự ảnh hưởng của Phật giáo trong tập tục tín ngưỡng dân gian Việt Nam, theo chúng tôi có thể phân chia theo nhóm chủ đề như sau :



Tập tục tín ngưỡng dân gian

Tác động

Tập tục Phật giáo

A

Nhóm liên quan đến ông, bà, tổ tiên



1

Lễ Trung Nguyên rằm tháng Bảy

<->

Lễ Vu Lan, Lễ Báo Hiếu

2

Tục đốt vàng mã

->

Tục hóa sớ, tiền vãng sinh

3

Nghi Học trò lễ

->

Nghi dâng lục cúng

4

Nghi Thập khoa

->

Nghi Trai đàn

5

Nghi Đàn trình

->

Nghi Đàn trình

6

Tục cúng Bông hoa

->

Tục cúng Bông hoa

7

Nghi cúng ông bà

->

Nghi Cầu Siêu

8

Nghi khai Xá hạc

->

Nghi khai Xá hạc

B

Nhóm liên quan đến người chết.



9

Lễ cúng Cô hồn

<->

Lễ Chẩn tế

10

Nghi Đề phan

->

Nghi Tây qui

11

Nghi cúng cơm

->

Nghi cúng vong

12

Nghi đám tang

->

Nghi Dẫn lộ

13

Nghi vớt vong

->

Đàn Thủy lục

14

Nghi vớt trùng

->

Đàn giải oan

C

Nhóm liên quan đến cá nhân và

đời sống



15

Tục cúng sao giải hạn

- >

Lễ cầu an đầu năm

16

Tục cúng Sóc Vọng

->

Lễ Sám hối Kỳ an

17

Tục Bố thí

<-

Tục Bố thí

18

Tục phóng sinh

<-

Tục phóng sinh

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

Ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hoá dân gian Việt Nam - 9


19

Tục ăn chay

<-

Tục ăn chay

20

Nghi lễ đám cưới

->

Lễ Hằng thuận

21

Tục hái lộc

<-

Tục hái lộc

22

Tục cúng Tam tai

->

Tục cúng Tam tai

23

Tục xin xăm

->

Tục xin xăm

24

Tục coi ngày tốt xấu

->

Tục coi ngày tốt xấu

D

Nhóm liên quan đến Phật trời,

Thần thánh



25

Lễ khai quang điểm nhãn

->

Lễ An vị

26

Lễ Thượng Nguyên rằm tháng Giêng

->

Lễ rằm tháng Giêng

27

Lễ Hạ Nguyên rằm tháng Mười

->

Lễ rằm tháng Mười

28

Lễ rằm tháng Tư

<-

Lễ Phật Đản

29

Tết Trung Thu

->

Lễ cúng Trăng

30

Lễ cúng Giao Thừa

<->

Lễ vía Di Lặc

(Xem Thích Đồng Bổn: “Những tập tục dân gian chịu ảnh hưởng Phật giáo đại thừa” Nxb.Viện KHXH.TP. HCM, năm 1991)

Phần liệt kê khái quát về các phong tục- nghi thức- hội lễ trên đây, chúng tôi dùng ký hiệu (< >) để chỉ ảnh hưởng tương tác qua lại trong từng cặp đối chiếu với nhau, có tất cả ba mươi cặp cùng dàn trải trên bốn nhóm đối tượng đời sống tinh thần. Trong đó tập tục dân gian qua thời gian giao thoa đã trở thành những tập tục chịu ảnh hưởng Phật giáo nhiều hơn được thấy qua hai mươi hai cặp (các số: 2-8,10-16,20,22-27,29) còn từ Phật giáo ảnh hưởng vào phong hóa dân gian là năm cặp (các số:17-19,21,28) và có ba cặp (các số:1,9, 30) là sự cùng tác động qua lại với nhau.


Điểm nổi bật vai trò Phật giáo trong tập tục phong hóa dân gian chính là khuynh hướng “dân tộc hóa” nghi lễ tập tục Phật giáo, có nghĩa là hòa quyện hình thức nghi lễ giữa "đạo" và "đời", điển hình như ở một lễ trai đàn, lúc nào cũng theo nguyên tắc “trong chay, ngoài bội”, tức bên trong lễ thì tụng kinh cầu quốc thái dân an và siêu độ cô hồn tử sĩ, bên ngoài hội thì có sân khấu hát tuồng, chèo về tích Phật (thay cho trước đó là hát bội tuồng Trung Hoa - theo lệ của triều đình phong kiến) do chính các nhà Sư đóng tuồng. Chính khuynh hướng “dân tộc hóa” này đã làm nhân dân thích thú và hào hứng tham gia, tạo nên sự gần gũi, gắn bó của Phật giáo với đời sống dân dã.

Thay vì tiếp nhận những phong tục nguyên mẫu có nguồn gốc văn hóa từ nước ngoài có thể dẫn đến nguy cơ bị đồng hóa, thì chính nhân dân đã tự nhận thức và lựa chọn Phật giáo làm tư tưởng chủ đạo, bởi họ nhận thấy rằng tư tưởng Phật giáo không dựa vào bất cứ cái gì khác ngoài yếu tố con người. Phật giáo vốn dĩ không có cái riêng hay cái chung nhất, mà đặt cơ sở chính trong lòng người để nhận thức thế giới và các mối quan hệ, đồng thời triết lí Phật giáo không có biên giới cho ý thức hệ giai cấp, chính trị, dân tộc... Đó là điều kiện tốt nhất để góp phần cho phong tục tập quán dân gian trong đời sống văn hóa xã hội Việt Nam ngày một bền vững, tốt đẹp.

Sự ảnh hưởng của Phật giáo trong tín ngưỡng dân gian là rất lớn. Phật giáo không chỉ ảnh hưởng trong hệ thống tín ngưỡng dân gian của người Việt mà còn ảnh hưởng đặc biệt sâu sắc tới các tập tục tín ngưỡng dân gian, phong phú, sâu rộng, bình dân hơn cả là trong lễ hội dân gian Việt Nam.

Giá trị văn hoá đặc trưng của Việt Nam được lắng đọng trong lễ hội, trong phong tục tập quán, tâm lý truyền thống, được kết tinh từ quá trình lao động sáng tạo, lối suy nghĩ, lối ứng xử của cộng đồng các dân tộc anh em cùng chung sống trên mảnh đất này. Lễ hội Việt Nam mang đậm bản sắc văn


hoá dân gian truyền thống và rất đa dạng, phong phú, đặc sắc. Nét đẹp văn hóa của ngôi chùa cũng được thể hiện qua các lễ hội. Có thể nói, cho đến nay chưa có tôn giáo nào có sức ảnh hưởng lớn đến các lễ hội ở Việt Nam như Phật giáo. Hàng trăm lễ hội ở Việt Nam phần đông là lễ hội Phật giáo gắn liền với ngôi chùa. Hội chùa là hội của văn hóa tôn giáo. Hội chùa lâu đời đã để lại một di sản văn hóa vô song: với nhiều trò chơi dân gian như đánh vật, thả chim, dệt vải, nấu cơm, bơi thuyền..v.v…, các hình thức hát xướng dân gian như hát quan họ và những mối tình liền anh liền chị, hát tuồng.v.v… và các nhạc cụ âm nhạc dân gian như chiêng, trống .v.v… ví như lễ hội chùa Lim (Tiên Sơn - Bắc Ninh) tổ chức vào ngày mười ba tháng giêng. Ca dao vùng này có câu:

"Cảnh chùa nghi ngút dâng hương Trống chiêng nhộn nhịp, cờ giăng rợp trời.

Hội làng mở lắm trò chơi,

Hát tuồng, đánh vật, có người thả chim.

Thi dệt vải, thi nấu cơm

Thi hát quan họ, bơi thuyền dưới ao".

Hay hội chùa còn là nơi hẹn hò, giao duyên: “Hội chùa Thầy có hang Cắc Cớ. Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy”, nằm trong văn mạch tư tưởng phồn thực cầu sinh đầy nhân văn của hội làng, hội chùa mà chỉ dòng Phật giáo dân gian Việt Nam chảy qua tâm thức của con người Việt Nam mới có được.

Lễ hội Phật giáo đã gắn bó, hòa quyện với quần chúng đến độ nó trở thành lễ hội của dân gian, mang tính đại đồng. Đi hành hương chiêm bái thánh tích, tham gia vào các lễ hội đã trở thành nhu cầu không thể thiếu của người dân Việt. Mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp, không phân biệt tôn giáo, quốc tịch đều tham gia lễ hội.


Hàng năm, hàng trăm lễ hội Phật giáo được diễn ra. Ngoài những lễ hội chung như Rằm tháng Giêng, Vu Lan, Khánh Đản, ở các địa phương còn có những lễ hội đặc thù gắn liền với những danh lam. Miền Nam có lễ hội Bà Đen (Linh Sơn Tiên Thạch tự), lễ hội chùa Bà núi Sam. Miền Trung có lễ hội chùa Núi (Bình Định), lễ hội Quan Âm (Non Nước)… Miền Bắc có lễ hội chùa Dâu, chùa Keo, chùa Hương (hình 4)...

Thông thường, lễ hội gồm hai phần: Phần lễ và phần hội. Phần lễ liên quan đến nghi thức cúng tế. Đó là sự tỏ lòng thành kính, tri ân đối với đấng thiêng liêng Phật, Thánh, bậc tiền hiền có nhiều công trạng. Phần hội có múa tứ linh, hát chèo hát dân ca, kể hạnh… là những hình thức mang đậm bản sắc văn hóa dân gian sinh động.

Đi hành hương, tham quan lễ hội cũng là trở về với thiên nhiên và nguồn cội tâm linh. Chẳng hạn, khách du lịch tham quan lễ hội chùa Hương có cảm tưởng như mình đang đi “phong cảnh Bụt”. Từ bến Đục vào chùa, khách hành hương thỏa lòng chiêm ngưỡng, liên tưởng đến sơn thủy hữu tình, giang sơn tú lệ gắn liền với những cái tên dân dã mà người dân mong ước: núi Mâm xôi, Con gà, Thiên trù, Cây vàng, Cây bạc, Nong tiền… Bên trong càng thêm hấp dẫn với những ngôi chùa thoát tục, động đá thiêng liêng, huyền bí, đa sắc, đa hình tuyệt mỹ mà thiên nhiên ban tặng như Tiên sơn, Hồng sơn… đặc biệt động Hương tích (Nam thiên đệ nhất động) huyền nhiệm gắn liền với sự tích bà Chúa Ba (Bồ-tát Quan Âm) tu hành đắc đạo…

Có thể kể đến một số lễ hội dân gian tiêu biểu mang ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo như:

Lễ hội rằm tháng giêng trong dân gian Việt Nam: Ở Việt Nam ngày rằm tháng giêng được gọi là lễ Thượng nguyên (sự mở đầu cao nhất). Dân gian có tục đi chơi đón trăng. Thanh niên từng toán một, nam riêng, nữ riêng, tụ tập quanh gốc đa đầu làng, bên bờ hồ giữa xóm hoặc trên gò cao, kề bến


nước, trong vườn hoa đào... Cây đu dựng từ trong Tết được lưu lại để các anh, các chị trổ tài, cũng là một cách níu giữ mùa xuân dài thêm một thời đoạn nữa. Sau đó họ rủ nhau đi dạo quanh xóm làng, tâm tình dưới ánh trăng thanh. Về sau lễ Thượng nguyên, lễ Nguyên tiêu chuyển về chùa chiền. Tất cả mọi chùa chiền ở xóm làng hay phường phố đều làm lễ cúng, mở rộng cửa đón khách thập phương. Không cứ là tín đồ Phật tử mà hầu như mọi nhà, nhất là giới nữ, đều đến chùa lễ Phật. Bởi vậy tục ngữ Việt Nam có câu: “Lễ Phật quanh năm không bằng rằm tháng giêng”. Lễ Thượng nguyên quan trọng như vậy, vì theo chuyện Phật thì chính ngày này chư Phật từ còi Cực lạc giáng lâm chùa chiền để chứng độ lòng thành của những tín đồ, nên ai cũng muốn đến chùa dâng hương ngày hôm ấy, nhất là giới nữ. Các vị lão bà đến chùa còn để tụng kinh niệm Phật, vừa lần tràng hạt vừa kể hạnh tức là những bài ca thuật lại sự tích của các Phật, các bồ tát và khuyến thiện, răn đe tội lỗi, ca ngợi sự hy sinh cho đồng bào, đồng loại.

Theo truyền thuyết ngày Thượng nguyên rằm tháng giêng có nguồn gốc như sau: Truyện Phật kể rằng ngày mùng một đầu tháng (âm lịch) và ngày rằm là ngày của các Phật. Do vậy, Phật tử đều đến chùa dâng lễ vật cúng Phật vào hai ngày đó. Nhưng ngày mùng một ban đêm lại đen tối mịt mù, ngược lại đêm rằm thì trăng soi vằng vặc. Nhất là đêm rằm đầu tiên của một năm thì thiêng liêng lắm, vì như đã nêu trên, là thời gian các Phật giáng lâm xuống mọi chùa chiền để độ trì cho mọi người tai qua nạn khỏi, phúc lộc đầy nhà. Khoảng dăm bảy thế kỷ trở lại đây, tín ngưỡng đạo giáo thâm nhập vào Phật giáo. Tôn giáo này coi rằm tháng giêng là ngày vía Thiên quan, là dịp may hãn hữu để làm lễ dâng sao giải hạn trừ tai ách. Do vậy các chùa cũng nhân ngày này dựng đàn tràng làm lễ dâng sao. Đàn tràng có ba cấp. Trên cùng là Trời, Phật, Tiên, Thánh. Cấp giữa là các vì sao thủ mạng (theo đạo Giáo, mỗi con người hàng năm chịu ảnh hưởng của một vì sao nào đó).


Cấp dưới cùng là các cô hồn chúng sinh lang thang vô định. Lễ vật thường là hoa quả, trầu cau, xôi oản, trà rượu và đồ vàng mã. Đó chính cũng là lý do khiến thêm nhiều người đến cửa chùa để cầu xin may mắn, tránh tai ương. Và càng đi vào cơ chế kinh tế thị trường lắm cơ may và cũng nhiều xui xẻo thì sự cầu xin đó càng nồng nàn, nên rằm tháng giêng chùa nào cũng chật ních khách dâng hương.

Lễ hội Phủ Giầy (Nam Định): Nhân vật thờ phụng trung tâm của lễ hội là Chúa Liễu Hạnh - một nhân vật anh hùng trong văn hoá dân gian đã được các vua chúa Việt Nam phong thánh, thần như"Chế Thắng Hoà Diệu đại vương"(Vua Lê Huyền Tông phong),"Thượng thượng đẳng tối linh thần- Mã Hoàng công chúa". Nhân dân phong là "Mẫu nghi thiên hạ" và trở thành một nhân vật Thánh Mẫu trong đạo Mẫu Việt Nam. Do vậy nghi lễ trong những ngày lễ hội vừa có những chế định theo nghi thức quốc lễ như lễ tế trong Phủ Chính ngày ba tháng ba, ngày giỗ chính, lại vừa có những hình thức nghi lễ dân gian như việc cầu cúng, xin thẻ, lên đồng...(hình 5).

Mặt khác, Liễu Hạnh vừa là Thần như sắc phong, vừa là Thánh Mẫu như dân phong, vừa là Phật theo sự tích đã có lần Liễu Hạnh quy y đầu Phật, lại vừa là Tiên -Tiên Chúa Quỳnh Hoa trong cung Đệ Nhị Tiên đình. Do vậy lễ hội Phủ Giầy cũng mang tính tổng hợp. Vừa có tính chất Phật giáo như rước thỉnh kinh xuống chùa Gôi trong đó có Hoà thượng đi đầu, các già rước cành phan, cầu Phật, niệm nam mô, vừa có tinh chất Thánh như việc cầu cúng, lên đồng, rước kiệu, vừa có tính chất Tiên trong pháp thuật xuyên lình...Mẫu Liễu Hạnh cũng là một nhân vật văn hoá dân gian. Nhân vật văn hoá này mang tính toàn năng: là Tiên nên có phép Tiên, là Phật nên mang tư tưởng Phật, là Mẫu nên có phẩm chất đạo đức của người mẹ, là Thần nên linh thiêng là con nhà gia thế (con Lê Thái Công, dòng họ Trần triều) cho nên được học hành, thông kinh sử, giỏi đàn ca, thơ phú( đã từng đối đáp thơ

Xem tất cả 110 trang.

Ngày đăng: 27/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí