CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 Đặt vấn đề
Hệ thống ngân hàng chính là huyết mạch của nền kinh tế, hoạt động của Ngân hàng bao trùm lên tất cả các hoạt động kinh tế xã hội, đây là hoạt động trung gian gắn liên với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế. Ngân hàng nhà nước điều hành các chính sách tiền tệ thông qua hoạt động của NHTM. Do đó, mục tiêu chung để phát triển nền kinh tế xã hội ở Việt Nam đó là xây dựng một hệ thống ngân hàng sức khỏe lành mạnh, kiểm soát chặt chẽ rủi ro, có khả năng đối phó với các biến động xảy ra, góp phần vào sự ổn định của hệ thống tài chính quốc gia.
Khả năng sinh lời chính là một trong những mục tiêu quan trọng, khẳng định sự tồn tại của một ngân hàng trong môi trường toàn cầu hiện nay. Tuy nhiên trong những năm gần đây, hiệu quả sinh lời của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã suy giảm, đặc biệt từ năm 2011, do tác động từ nhiều yếu tố nội tại và bên ngoài, hoạt động đem đến lợi nhuận chính cho ngân hàng chính là tín dụng mà lại sụt giảm đáng kể do nợ xấu gia tăng và sự chênh lệch trong lãi suất tại thị trường Ngân hàng Việt Nam, bên cạnh đó việc giảm rủi ro, đa dạng hóa hoạt động ngoài tín dụng lại chưa làm tăng lợi nhuận.
Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa là 2 công cụ điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ và Ngân hàng trung ương và góp phần rất lớn đối với việc giữ vững ổn định kinh tế, và duy trì tốc độ tăng trưởng. Nếu chính sách tài khóa thông qua thuế và đầu tư công, tập trung chủ yếu vào thành phần, các mức chi phí, các khoản thuế khoá của Nhà nước, công cụ còn lại là chính sách tiền tệ quốc gia thì lại chủ yếu tập trung trong việc ổn định giá trị, kiềm chế lạm phát, giải quyết khả năng thanh toán cho hoạt động kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh và góp phần nâng
cao đời sống của nhân dân, góp phần thúc đẩy phát triển thị trường tiền tệ và thị trường vốn, kiểm soát toàn bộ hoạt động hệ thống NHTM và các tổ chức tín dụng .
Có thể bạn quan tâm!
- Ảnh hưởng của chính sách tiền tệ thông qua lãi suất và độ dốc trái phiếu đến khả năng sinh lời của Ngân hàng thương mại Việt Nam - 1
- Các Chỉ Số Đo Lường Tỷ Suất Sinh Lời Của Nhtm
- Ảnh Hưởng Chính Suất Tiền Tệ Thông Qua Lãi Suất Và Độ Dốc Trái Phiếu Đến Khả Năng Sinh Lời Của Nhtm.
- Thực Trạng Ảnh Hưởng Của Chính Sách Tiền Tệ Thông Qua Lãi Suất Và Độ Dốc Trái Phiếu Đến Khả Năng Sinh Lời Của Nhtm Việt Nam.
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
Dựa trên nghiên cứu Borio et al.(2017) về việc chính sách tiền tệ tác động đến khả năng sinh lời của NHTM. Bài nghiên cứu tìm thấy một mối quan hệ tích cực giữa mức lãi suất ngắn hạn với độ dốc của đường cong lợi suất cũng như với khả năng sinh lời của ngân hàng – thông qua các tỉ số lợi nhuận ròng trên tài sản (ROA), thu nhập lãi thuần (NIM), thu nhập ngoài lãi (NNIM), tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng (PTT). Biến động của ROA, NIM, và PTT với cơ cấu lãi suất là tương tự nhau, trong khi thu nhập ngoài lãi (NNIM) là ngược lại. Điều này cho thấy tác động tích cực của cơ cấu lãi suất lên thu nhập ròng từ lãi chiếm ưu thế hơn so với tác động tiêu cực lên các khoản trích lập dự phòng và thu nhập ngoài lãi. Kết quả này cũng thấy rằng sức ảnh hưởng sẽ mạnh hơn khi mức lãi suất thấp hơn và đường cong bớt dốc hơn, nghĩa là khi các phi tuyến tính không xuất hiện. Tất cả những điều này cho thấy, theo thời gian, những mức lãi suất thấp bất thường so với trung bình và một cơ cấu lãi suất bằng phẳng bất thường so với trung bình làm xói mòn đi khả năng sinh lời của ngân hàng.
Hiểu được mối liên hệ giữa lãi suất và khả năng sinh lời của ngân hàng là rất quan trọng để đánh giá sự ảnh hưởng của lập trường chính sách tiền tệ - lệ thuộc bởi cơ cấu lãi suất (vị trí và độ dốc của đường cong năng suất) - lên sự ổn định của khu vực tài chính. Trong khi chính sách tiền tệ không phải, dĩ nhiên, là tác động duy nhất lên cơ cấu lãi suất, nó vẫn có một sức ảnh hưởng to lớn đến cơ cấu này, ngân hàng nhà nước ban hành mức lãi ngắn hạn và làm ảnh hưởng đến mức lãi dài hạn thông qua việc trực tiếp thu mua các cổ phiếu cũng như định hướng sự phán đoán của các thành phần tham gia thị trường về lãi suất ngắn hạn.
Sự liên kết giữa chính sách tiền tệ và khả năng sinh lời của ngân hàng nổi lên từ sau cuộc Đại hủng hoảng tài chính. Ở những nền kinh tế phát triển lớn, các mức lãi suất ngắn hạn giảm xuống đến gần không và lãi dài hạn thì chạm mức thấp kỷ lục trong lịch sử. Đã có ý kiến lan toả rộng rãi rằng phản ứng mạnh mẽ của ngân hàng nhà nước trong suốt những giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng mang tính quyết dịnh đối với việc ngăn chặn sự tan chảy của nền tài chính kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm gần đây đã dấy lên mối quan ngại về hiệu quả thực của sự điều tiết tiền tệ kéo dài có thể giảm do các tác dụng phụ tiêu cực của nó (như Ngân hàng thanh toán quốc tế 2012; Dale (2012); Plosser (2012); Rajan (2013)). Một tác dụng phụ đó chính là sự tác động tiêu cực của những mức lãi suất thấp đến khả năng sinh lời củangân hàng và vì vậy ảnh hưởng lên cả sự ổn định của khu vực này.
Mối liên hệ giữa chính sách tiền tệ và khả năng sinh lời của ngân hàng đã xuất hiện trong các nghiên cứu hàn lâm (như của Flannery (1981), Hancock (1985), Samuelson (1945)). Nhưng trong những năm gần đây nó đã bị lãng quên chỉ như một chủ đề nghiên cứu. Chỉ có một vài nghiên cứu đã tập trung chủ yếu vào tác động của lãi suất lên khả năng sinh lời của Ngân hàng. English (2002) đã tìm hiểu về mối liên hệ giữa rủi ro lãi suất và các mức chênh lệch lãi suất ngân hàng ở 10 nước công nghiệp. Ông nhận thấy rằng, khi lợi nhuận trung bình của tài sản ngân hàng liên quan chặt chẽ đến tỷ giá dài hạn hơn là sản lượng trung bình của nợ, một đường cong năng suất dốc làm tăng mức chênh lệch lãi suất lên. Gần đây, Alessandri et al.(2015) đã tìm ra một mối liên hệ lâu dài tích cực giữa vị trí cũng như độ dốc của đường cong năng suất và lợi nhuận ngân hàng ở Vương quốc Anh.
Bài luận văn đánh giá ảnh hưởng của chính sách tiền tệ cụ thể là chính sách lãi suất với công cụ chính là lãi suất và đường cong lợi suất ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của NHTM tại Việt Nam. Sử dụng dữ liệu bảng với mẫu đến từ 24 NHTM Việt Nam từ 2006-2016 với 264 quan sát. Sử dụng phương pháp ước lượng moment
tổng quát – GMM nhằm khắc phục các lỗi về tự tương quan, phương sai thay đổi, các biến nội sinh nên kết quả ước lượng được cũng sẽ không chệch, tạo tính vững và kết quả có hiệu quả trong kiểm soát các vấn đề về nội sinh với bộ dữ liệu thu thập từ 2006-2016 theo kỳ quan sát năm, nhằm tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của Ngân hàng.
Trong luận văn này, tôi tìm hiểu sâu hơn về sự kết nối giữa chính sách tiền tệ thông qua lãi suất và độ dốc trái phiếu đến khả năng sinh lời của ngân hàng. Luận văn đóng góp qua 2 con đường chính. Đầu tiên, tôi phân tích mối liên kết toàn diện hơn, dựa vào một tổ hợp của các NHTM Việt Nam và tất cả những thành phần chính trên bảng cân đối kế toán, báo cáo tài chính của các ngân hàng này. Đến cuối cùng, chúng tôi vẽ ra 1 tổ hợp dữ liệu trong giai đoạn 2006-2016. Và chúng tôi nhìn vào lợi nhuận ròng (NIM), thu nhập ngoài lãi (NNIM), các khoản trích lập dự phòng rủi ro tín dụng (PTT) và tổng lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA). Thứ hai, chúng tôi cho phép các phi tuyến tính có mặt trong mối liên hệ giữa lãi suất và khả năng sinh lời của ngân hàng – một khía cạnh đã bị bỏ qua trong các nghiên cứu trước mặc cho sức hấp dẫn trực quan của nó. Một điều quan trọng là, nếu những phi tuyến tính này lớn, việc bỏ qua chúng là đánh giá thấp những ảnh hưởng của các mức lãi suất rất thấp.
Chính từ tầm quan trọng của việc gia tăng khả năng sinh lời của hệ thống các NHTM Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập khu vực và toàn cầu hóa hiện nay, tôi đã quyết định lựa chọn luận văn “ Ảnh hưởng của chính sách tiền tệ thông qua lãi suất và độ dốc trái phiếu đến khả năng sinh lời của NHTM Việt Nam” nhằm tìm ra được câu trả lời về mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ đến khả năng sinh lời NHTM như thế nào.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu:
Bài nghiên cứu xem xét mối quan hệ về chính sách tiền tệ đến khả năng sinh lời NHTM Việt Nam, dựa trên cách tiếp cận của Borio và cộng sự (2017) về chính sách tiền tệ thông qua lãi suất và độ dốc trái phiếu đến khả năng sinh lời NHTM Việt Nam.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu:
Nghiên cứu phân tích ảnh hưởng từ của chính sách tiền tệ, đo lường thông qua lãi suất và độ dốc trái phiếu đến khả năng sinh lời NHTM Việt Nam tập trung làm rò các câu hỏi sau:
Thứ nhất, tồn tại hay không mối quan hệ giữa lãi suất, độ dốc trái phiếu ảnh hưởng đến khả năng sinh lời ngân hàng, quan hệ này có dạng tuyến tính hay phi tuyến?
Thứ hai, mối quan hệ phi tuyến giữa lãi suất, độ dốc trái phiếu ảnh hưởng chiều hướng như thế nào đến khả năng sinh lời ngân hàng thể hiện qua lợi nhuận lãi thuần, lợi nhuận ngoài lãi, hiệu suất sử dụng tài sản, dự phòng các khoản cho vay tín dụng.
1.4 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: chính sách lãi suất và độ dốc trái phiếu để đo lường chính sách tiền tệ và khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam, gồm 16 Ngân hàng với điều kiện lọc dữ liệu không có các ngân hàng nước ngoài,ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam với một số quốc gia, số liệu đã được công bố đầy đủ,rộng rãi trong giai đoạn nghiên cứu từ 2006-2016.
Phạm vi nghiên cứu: các NHTM Việt Nam có dữ liệu, và giai đoạn nghiên cứu kéo dài 11 năm từ 2006 đến 2016 nhằm tăng tối đa số quan sát đảm bảo tin cậy tốt hơn cho kết quả phương pháp phân tích định lượng và cũng như theo dòi được toàn bộ diễn biến các yếu tố nghiên cứu
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, áp dụng kỹ thuật hồi quy đa biến với dữ liệu bảng (Panel Data) GMM được giới thiệu bởi Bond (1991) và Bover (1995) qua đó nhằm so sánh kết quả thu được giữa các mô hình tin cậy, khắc phục các giả thiết định lượng cổ điển.
Kết quả thực nghiệm có được sau khi chạy mô hình và các kiểm định sẽ là cơ sở để đưa ra kết luận các giả thuyết của nghiên cứu được chấp nhận hay bị bác bỏ, đảm bảo tính phù hợp của mô hình.
Các dữ liệu và các biến vĩ mô được lấy từ nguồn là tổng cục thống kê, ngân hàng nhà nước, báo cáo tài chính, báo cáo thường niên qua các năm của các NHTM tại Việt Nam.
Phần mềm được tác giả sử dụng để phân tích định lượng là Stata 12, lý do là phần mềm này cung cấp đầy đủ các công cụ để tác giả phân tích kết quả định lượng.
1.6 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Dù chủ đề về lợi nhuận, khả năng sinh lời NHTM đã được rất nhiều các tác giả trong nước và thể giới nghiên cứu trước đó, tuy nhiên mối quan hệ về chính sách tiền tệ thông qua lãi suất và độ dốc trái phiếu, với quan hệ phi tuyến ít được nghiên cứu, đây chính là tính mới của đề tài. Giả thuyết nền nghiên cứu được dựa trên công trình vừa mới xuất bản Claudio Borio và cộng sự (2017). Với một nền kinh tế đang
trong quá trình hội nhập như Việt Nam, với các thách thức mở cửa, luận văn hi vọng giúp ích trong việc đóng góp ý nghĩa khoa học hệ thống lại các lý luận, bằng chứng thực nghiệm về chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến khả năng sinh lời NHTM.
Kết quả nghiên cứu của Borio et al.(2017) cho rằng bằng chứng thực nghiệm chính sách tiền tệ có tác động đến khả năng sinh lời của NHTM cụ thể hơn có mối quan hệ phi tuyến giữa lãi suất, đường cong lợi suất trái phiếu đến thu nhập ngoài lãi, thu nhập lãi thuần, dự phòng rủi ro tín dụng và tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản. Đây là mối quan hệ đổi chiều, ban đầu khả năng sinh lời của ngân hàng tăng cùng chiều với lãi suất, đến một mức lãi suất cao nhất định thì lãi suất tăng lên, khả năng sinh lời của ngân hàng giảm. Cụ thể lãi suất ngắn hạn với độ dốc của đường cong lợi suất tác động tới tỉ số lợi nhuận ròng trên tài sản (ROA), thu nhập lãi thuần (NIM), tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng (PTT) là cùng chiều hướng hình U ngược, trong khi tác động tới thu nhập ngoài lãi (NNIM) là hình chữ U. Điều đó cho thấy:
Thứ nhất, cơ cấu lãi suất tác động tích cực tới thu nhập ròng từ lãi chiếm ưu thế hơn so với tác động tiêu cực lên các khoản trích lập dự phòng và thu nhập ngoài lãi. Trong giai đoạn trước một mức lãi suất hoặc độ dốc trái phiếu quá cao (trước khi đổi chiều), lãi suất càng tăng trong giai đoạn này dẫn tới khả năng sinh lời của ngân hàng càng cao.
Thứ hai, điều này cũng có nghĩa, nếu lãi suất duy trì mức thấp, bằng phẳng trong giai đoạn dài thì khả năng sinh lời ngân hàng sẽ thấp theo, hay khả năng sinh lời sẽ bị xói mòn theo thời gian.
Thứ ba, trong trường hợp tiếp sau giai đoạn lãi suất và độ dốc trái phiếu tăng quá cao, khả năng sinh lời NHTM sẽ đổi chiều, khả năng sinh lời ngân hàng suy giảm.
Kết quả này phù hợp với thực trạng Việt Nam trong phân tích dữ liệu về lợi nhuận trên tổng tài sản và sự biến động lãi suất, độ dốc trái phiếu. Cũng cố học thuyết giả định được đề nghị bởi Borio et al.(2017) đăng trên tạp chí xếp hạng uy tín “International Finance”.
Kết quả nghiên cứu giúp các nhà quản lý, các chuyên gia kinh tế có được cái nhìn chính xác, đầy đủ và toàn diện hơn để đo lường, đánh giá tỷ suất sinh lời của Ngân hàng. Đồng thời tìm ra các yếu tố tác động đến khả năng sinh lời của các NHTM tại Việt Nam đầy đủ hơn.
Luận văn cung cấp cho các nhà quản trị các thông tin hữu ích nhằm đưa ra các kế hoạch, chính sách hợp lý nhằm nâng cao khả năng sinh lợi của NHTM tại Việt Nam trong giai đoạn các Ngân hàng đang sụt giảm lợi nhuận đáng kể, với lãi suất đang duy trì mức thấp so với thời kỳ cao trước đó. Bên cạnh đó, luận văn cũng là cơ sở để Chính phủ, Ngân hàng nhà nước đưa ra những chính sách vĩ mô hợp lý, kịp thời góp phần đạt được những mục tiêu kinh tế đã đặt ra, nhằm tạo niềm tin cho công chúng, các Ngân hàng tăng trưởng, phát triển bền vững.
1.7 Kết cấu của luận văn
Bố cục luận văn gồm có 5 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu
Chương 2: Tổng quan về chính sách tiền tệ thông qua lãi suất và độ dốc trái phiếu đến khả năng sinh lời NHTM.
Chương 3: Thực trạng ảnh hưởng của chính sách tiền tệ thông qua lãi suất và độ dốc trái phiếu đển khả năng sinh lời của NHTM Việt Nam
Chương 4: Kết quả nghiên cứu thực nghiệm
Chương 5: Kết luận và kiến nghị