Chính Sách Lãi Suất Tiền Vay Và Tiền Gửi Ở Các Tổ Chức Tín Dụng

Nếu không có sự tham gia mua bán của Ngân hàng trung ương trên thị trường này mà chỉ có việc mua bán trái phiếu giữa các Tổ chức tín dụng với nhau thì lượng cung tiền nói chung là không thay đổi. Đó là vì một NHTM bán và một NHTM khác mua thì đối với toàn cục, chỉ có sự di chuyển trái phiếu từ ngân hàng này sang ngân hàng khác và một sự di chuyển ngược lại từ một phần dự trữ thặng dư của ngân hàng thừa vào dự trữ của ngân hàng đang thiếu.

Thuật ngữ “nghiệp vụ thị trường mở” lần đầu tiên xuất hiện ở Mỹ vào những năm 1920 khi nghiệp vụ này bắt đầu được thực hiện. Các nghiệp vụ của Quỹ dự trữ liên bang Mỹ về thị trường mở so với các nước khác có phạm vi rộng nhất, bởi vì ở nước này có thị trường giấy tờ có giá lớn nhất.

Thị trường mở là cách mà Ngân hàng trung ương phát hành tiền vào nền kinh tế hoặc rút bớt khối tiền lưu thông trong đó bằng cách mua hay bán trái phiếu. Nếu như chính sách chiết khấu có tác dụng tổng hợp và có những hạn chế tạm thời thì nghiệp vụ thị trường mở là công cụ tác động nhanh và linh hoạt. Khi mua bán giấy tờ có giá với việc quy định mức giá có lợi, Ngân hàng trung ương muốn tác động tới nguồn vốn của các Tổ chức tín dụng và do đó, tác động tới mức cho vay của các Tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế và dân cư.

Thị trường tiền tệ ở Việt Nam còn chưa hoàn chỉnh và đang trong quá trình đi dần vào quỹ đạo. Một khi thị trường tiền tệ lớn mạnh, nó sẽ góp phần quan trọng vào sự hữu hiệu của chính sách tiền tệ.

4. Kiểm soát tín dụng chọn lọc

Ba công cụ vận dụng để thực hiện chính sách tiền tệ nói trên có tác dụng tổng quát là kiểm soát lượng cho vay của TCTD, mức lãi suất và lượng cung tiền nói chung. Nhưng TCTD cho ai vay là tùy thuộc vào sự xem xét của mình, điều đó có nghĩa là ba công cụ trên chưa ảnh hưởng đến cơ cấu tín dụng mà TCTD cấp cho khách hàng. Nếu không áp dụng chính sách kiểm soát tín dụng chọn lọc, TCTD sẽ chỉ hướng tín dụng vào những ngành kinh doanh lớn, cho doanh nghiệp nước ngoài vay hoặc cho vay để mua bán chứng khoán, ít chú trọng tới những ngành hoạt động có lợi ích xã hội nhiều hơn.

Một chính sách kiểm soát tín dụng chọn lọc sẽ giới hạn mức tín dụng tối đa cấp cho những ngành mà Nhà nước không muốn phát triển nữa. Ngược lại, ưu đãi cho những ngành hoạt động nào được xem như ưu tiên tín dụng như xây dựng nhà ở, doanh nghiệp nhỏ hay có sự phân biệt để ưu tiên phát triển những vùng lãnh thổ đặc biệt so với các vùng khác. Việc thực hiện tín dụng ưu đãi với lãi suất ưu đãi là một đòn bẩy giúp thực hiện chính sách kinh tế của Nhà nước. Chính sách này muốn đạt mục tiêu của nó cần nâng cao chất lượng kiểm soát và thanh tra TCTD, chất lượng đó tùy thuộc vào trình độ, nghiệp vụ chuyên môn của đội ngũ cán bộ và đạo đức của họ.

5. Chính sách lãi suất tiền vay và tiền gửi ở các tổ chức tín dụng

Thông thường, lãi suất tiền gửi và tiền vay biến đổi cùng chiều, nghĩa là cả hai mức lãi suất đó đều cùng tăng lên hoặc cùng giảm xuống, tùy theo chính sách của NHTW.

Ở phần lớn các nước công nghiệp phát triển, NHTW theo chính sách tác động gián tiếp tới lãi suất tiền gửi và tiền vay bằng cách áp dụng lãi suất tái chiết khấu. Căn cứ vào lãi suất này, TCTD áp dụng lãi suất tiền gửi và tiền vay phần lớn tùy theo tình hình thị trường, thường cao hơn lãi suất tái chiết khấu. Đối với các TCTD, lãi suất chiết khấu của NHTW mang tính hướng dẫn. Khi NHTW tăng lãi suất chiết khấu, điều đó có nghĩa NHTW muốn hạn chế lượng cung tiền. Các TCTD sẽ theo đúng đường lối đó và sẽ tăng lãi suất của mình. Như vậy, NHTW sử dụng công cụ lãi suất chiết khấu để hướng dẫn các TCTD theo đúng chính sách tiền tệ của mình. Ít khi NHTW áp dụng biện pháp ấn định lãi suất. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, NHTW cũng ấn định một “trần” lãi suất tối đa áp dụng cho tiền gửi.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.

Còn ở những nước đang phát triển, lãi suất tiền gửi và tiền vay tối đa được giao cho NHTW quyết định và điều chỉnh các mức lãi suất đó. Một trong những lý do được đưa ra để giải thích vì sao không để thị trường quyết định các mức lãi suất đó là vì thị trường tiền tệ trong nước chưa đủ mạnh và chưa đủ sức cạnh tranh. Tuy nhiên, những cuộc nghiên cứu của Ngân hàng thế giới cho thấy, những trần lãi suất cứng nhắc như vậy làm cản trở sự tăng trưởng về tiết kiệm tài chính và giảm thiểu hiệu quả đầu tư. Chính phủ nhiều nước đang phát triển ngày càng thừa nhận lãi suất chịu sự quản lý của Nhà nước có thể có hại, và do vậy, họ có xu hướng để thị trường có tiếng nói lớn hơn. Trong điều kiện sự ổn định kinh tế vĩ mô chưa thiết lập, Nhà nước có thể tiếp tục quản lý lãi suất.

Cơ cấu lãi suất của Việt Nam hiện nay đang được cải tiến. Việc hợp lý hóa chính sách lãi suất sẽ là yếu tố chủ chốt của việc cải cách lĩnh vực tài chính. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh, việc tính lãi suất đối với mỗi loại giao dịch tốt nhất nên để thị trường tự quyết định với việc Chính phủ sử dụng ảnh hưởng của mình thông qua một vài lãi suất cơ bản. Tuy nhiên, ở Việt nam hiện nay, khi tình hình kinh tế vĩ mô còn nhiều biến động, các NHTM quốc doanh làm chủ thị trường thì Chính phủ không tránh khỏi việc phải áp dụng chính sách lãi suất tích cực.

Tài chính tiền tệ - 23

6. Ấn định tỷ lệ ký quỹ bắt buộc

Ở những nước công nghiệp phát triển, thị trường chứng khoán hoạt động rất mạnh, các NHTM thường tài trợ các nghiệp vụ mua cổ phiếu và trái phiếu theo thể thức người mua chỉ trả tiền ngay một phần giá trị mua, số còn lại thì nợ người môi giới chứng khoán. Người này giữ chứng khoán làm vật thế chấp và dùng nó vay lại ở

NHTM. Số tiền trả ngay được gọi là “ký quỹ”, ký quỹ lớn thì số tiền vay nhỏ và và ngược lại. NHTW nếu muốn mở rộng lượng cung tiền sẽ ấn định tỷ lệ ký quỹ thấp. Trong trường hợp thắt chặt tiền tệ, NHTW tăng mức ký quỹ lên, có thể tới 100% giá trị chứng khoán mua.

Ở nhiều nước đang phát triển, nếu chưa có thị trường chứng khoán, người ta có thể áp dụng thể thức này hơi khác một chút bằng cách ấn định tỷ lệ cho vay áp dụng cho sản xuất kinh doanh cao hay thấp tùy theo tình hình: nếu muốn mở rộng tiền tệ, tỷ lệ cho vay trên vốn lưu động hay giá trị hàng hóa thế chấp cao. Ngược lại, khi muốn hạn chế tiền tệ, NHTW ấn định tỷ lệ cho vay thấp để buộc các doanh nghiệp phải tung hàng tồn kho ra bán, không giữ lại chờ giá lên. Và như vậy, nghiệp vụ này giống chính sách kiểm soát tín dụng có chọn lọc, áp dụng cho từng ngành hoạt động.

7. Kiểm soát tín dụng tiêu dùng trên thị trường

Các nước công nghiệp phát triển thường hay khuyến khích tiêu dùng bằng nhiều cách, chẳng hạn như bán trả góp. Nhưng trong nhiều trường hợp, NHTW có quyền quy định mức trả tiền ngay cao hay thấp đối với các nghiệp vụ bán hàng tiêu dùng trả góp hay mua nhà trả góp để hạn chế hay khuyến khích nghiệp vụ này. Đồng thời, NHTW cũng có thể quy định thời gian trả góp bằng cách quy định mức trả góp từng tháng…

Ở Việt Nam, thể thức này cũng đã được áp dụng nhưng vẫn chưa phổ biến. Khi nền kinh tế đến giai đoạn sản xuất nhiều thì thể thức này tất sẽ phổ biến và NHTW sẽ thấy lúc nào cần áp dụng sự can thiệp của mình.

Các công cụ của chính sách tiền tệ là giống nhau ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Sự khác nhau chỉ là ở cách sử dụng để đạt được hiệu quả tác động tổng hợp tối đa đến mục tiêu chủ yếu nhất trong khi không làm ảnh hưởng quá mức đến các mục tiêu khác của sự phát triển kinh tế. Chẳng hạn, khi sử dụng lãi suất cao nhằm khuyến khích tiết kiệm và kiềm chế lạm phát thì đồng thời cũng phải giữ mức cân bằng nào đó về mức độ và thời gian sao cho nó không kiềm chế đầu tư quá mức làm tốc độ tăng trưởng kinh tế bị chậm lại. Cách thức sử dụng công cụ chính sách tiền tệ cũng rất khác nhau ở mỗi nước. Hoàn cảnh kinh tế cụ thể của mỗi nước (bao gồm cả điều kiện quốc tế tác động đến nó) ở những giai đoạn phát triển khác nhau đòi hỏi phải áp dụng những giải pháp không giống nhau để đảm bảo mức độ phù hợp cao nhất với điều kiện và mục tiêu phát triển. Chính vì thế, sự khác biệt sẽ thể hiện tập trung nhất ở kết quả cuối cùng của quá trình thực hiện chính sách tiền tệ.

Trên thực tế, không phải mọi Chính phủ, mọi NHTW đều lường trước được kết cục của tình huống. Khi đó một công cụ được sử dụng nhằm vào một mục tiêu xác định thì nó cũng tác động đến tất cả các mục tiêu khác theo cách của riêng nó, ngoài mong muốn ban đầu. Hoặc việc đạt tới một mục tiêu định trước chịu sự tác động đồng thời của nhiều công cụ, gồm cả công cụ của chính sách tiền tệ và các chính sách khác.

Mỗi công cụ đều có tính hai mặt, vì vậy, tùy theo mức độ cấp thiết của những nhiệm vụ trong các giai đoạn khác nhau mà lựa chọn mặt nào có lợi nhiều hơn. Mặt khác, nền kinh tế luôn vận động, biến đổi nên mỗi công cụ chính sách sẽ có thời điểm “bão hòa”. Do đó, cần phải kiểm tra, luận giải thường xuyên để biết thời điểm bão hòa của mỗi công cụ chính sách. Thông thường, trong một thời kỳ, cùng một lúc khó có thể hướng tất cả các công cụ vào thực hiện hoàn hảo các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Vì thế, điều hành sử dụng các công cụ là ở khả năng biết phối hợp các mục tiêu và công cụ để đạt hiệu quả tổng thể cao của nền kinh tế.

CÂU HỎI ÔN TẬP


1. Trình bày chức năng của ngân hàng trung ương.

2. Trình bày mối quan hệ giữa chức năng phát hành tiền của ngân hàng trung ương với mục tiêu kiểm soát lạm phát.

3. Phân tích vai trò là người cho vay cuối cùng của ngân hàng trung ương đối với các ngân hàng thương mại.

4. Tại sao có thể nói ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng.

5. Chính sách tiền tệ là gì? Phân tích các mục tiêu của chính sách tiền tệ.

CHƯƠNG 7: TÀI CHÍNH QUỐC TẾ


1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Tài chính quốc tế là hoạt động tài chính diễn ra trên phạm vi quốc tế. Đó là sự di chuyển các luồng tiền vốn giữa các quốc gia gắn liền với quan hệ kinh tế về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quân sự, ngoại giao,… giữa các chủ thể của các quốc gia và các tổ chức quốc tế thông qua việc tạo lập, sử dụng các quỹ tiền tệ ở mỗi chủ thể nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể đó trong các quan hệ quốc tế.

1.1. Cơ sở hình thành tài chính quốc tế

- Các quan hệ quốc tế giữa các quốc gia về kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, quân sự, ngoại giao,… đòi hỏi phải có và làm xuất hiện quan hệ tài chính quốc tế.

- Cùng với sự xuất hiện của tiền tệ như một vật trao đổi trung gian, tiền tệ dần có đầy đủ các chức năng trong trao đổi, thanh toán, trong dự trữ và chức năng tiền tệ thế giới. Chính chức năng trao đổi, thanh toán quốc tế của tiền đã là cơ sở cho việc hình thành và thực hiện các quan hệ tài chính quốc tế.

- Thương mại quốc tế ra đời và phát triển làm thúc đẩy các khoản thanh toán và tín dụng giữa các quốc gia trong lĩnh vực đầu tư quốc tế và nhiều lĩnh vực khác.

- Sự phát triển của khoa học công nghệ và xu thế hội nhập kinh tế, phương tiện giao thông ngày càng phát triển, nảy sinh quan hệ đầu tư quốc tế, hợp tác lao động, hoạt động du lịch quốc tế giữa các quốc gia làm cho các hoạt động tài chính quốc tế trong lĩnh vực này ngày càng sôi động.

1.2. Quá trình phát triển của tài chính quốc tế

Trong thời kì chiếm hữu nô lệ gắn liền với Nhà nước chủ nô, những hình thức sơ khai của quan hệ tài chính quốc tế như việc trao đổi, buôn bán hàng hóa giữa các quốc gia, cống nộp vàng bạc, châu báu giữa nước này với nước khác đã xuất hiện. Cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế, thuế xuất nhập khẩu ra đời để điều chỉnh các quan hệ buôn bán giữa các quốc gia và tín dụng quốc tế đã xuất hiện do có các quan hệ vay nợ giữa các nước.

Với sự xuất hiện của Chủ nghĩa tư bản, những hình thức cổ truyền của quan hệ tài chính quốc tế như thuế xuất nhập khẩu, tín dụng quốc tế vẫn tiếp tục tồn tại và ngày càng phát triển đa dạng thích ứng với những bước phát triển mới của các quan hệ kinh tế quốc tế và thái độ chính trị của các nhà nước. Với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế hàng hóa – tiền tệ, kinh tế thị trường, những diễn biến phức tạp của cục diện chính trị thế giới, cũng như cách tiếp cận của chính phủ các nước trong quan hệ quốc tế, bên cạnh các hình thức cổ truyền, đã xuất hiện những hình thức mới của quan hệ tài chính quốc tế như đầu tư quốc tế trực tiếp, đầu tư quốc tế gián tiếp với các loại hình đa dạng,

viện trợ quốc tế không hoàn lại, hợp tác quốc tế tài chính – tiền tệ thông qua việc thiết lập các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế.

2. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI

2.1. Tỷ giá hối đoái

2.1.1. Khái niệm tỷ giá hối đoái

Trong thanh toán quốc tế, việc chi trả dù thực hiện bằng cách chuyển khoản hay bù trừ, tiền mặt hay tiền tín dụng đều có liên quan chặt chẽ đến vấn đề chuyển đổi đơn vị tiền tệ nước này thành đơn vị tiền tệ của nước khác. Muốn thực hiện việc chuyển đổi này phải dựa vào mức quy đổi xác định, hay nói cách khác là phải dựa vào tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là giá cả của đơn vị tiền tệ của một nước được biểu hiện bằng những đơn vị tiền tệ của nước khác.

2.1.2. Các phương pháp biểu hiện tỷ giá hối đoái

Có hai phương pháp biểu hiện tỷ giá hối đoái:

- Nếu biểu hiện một đơn vị cố định tiền trong nước bằng một số lượng biến đổi tiền nước ngoài gọi là cách biểu hiện gián tiếp của tỷ giá.

- Nếu biểu hiện một đơn vị cố định tiền nước ngoài bằng một số lượng biến đổi tiền trong nước thị gọi là cách biểu hiện tỷ giá trực tiếp.

2.1.3. Các biện pháp ổn định tỷ giá hối đoái

Trong nền kinh tế hiện đại, tỷ giá hối đoái biến động thường xuyên trên thị trường tiền tệ thế giới, vì vậy các quốc gia đã tìm mọi cách, mọi biện pháp để ổn định tỷ giá hối đoái. Các biện pháp thường được sử dụng là:

- Chính sách chiết khấu: nguyên lý cơ bản của phương pháp này là: thông qua vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế, ngân hàng trung ương có thể công bố thay đổi lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu, dẫn đến làm thay đổi lãi suất tín dụng trên thị trường, tạo ra sự kích thích đối với tư bản nước ngoài. Từ đó dẫn tới sự thay đổi về lượng cung cầu ngoại tệ phù hợp và bình ổn tỷ giá hối đoái.

- Chính sách hối đoái: nguyên lý cơ bản của biện pháp này là nhà nước phải tạo cho được sự tác động trực tiếp vào tỷ giá hối đoái. Ngân hàng trung ương, thông qua các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ tạo khả năng thay đổi quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường, từ đó thực hiện mục tiêu bình ổn tỷ giá hối đoái của mình. Biện pháp này đòi hỏi ngân hàng trung ương phải có quỹ ngoại hối dồi dào và Nhà nước cũng cần hình thành quỹ dự trữ bình ổn hối đoái.

2.2. Thị trường ngoại hối

2.2.1. Khái niệm thị trường ngoại hối

Thị trường ngoại hối là thị trường vốn ngoại tệ, là nơi chuyên trao đổi đồng tiền các nước, nơi xảy ra thường xuyên sự cọ sát giữa nhu cầu ngoại tệ và xác định các điều kiện giao dịch nhằm thoả mãn nhu cầu về ngoại tệ của các chủ thể kinh tế .

Trên thị trường ngoại hối thường diễn ra hai loại giao dịch là: mua bán các loại ngoại tệ và vay- cho vay ngoại tệ.

2.2.2. Các loại thị trường ngoại hối

Do mọi loại giao dịch như trên có những đặc điểm khác nhau, dẫn đến sự phân chia thị trường ngoại hối làm hai bộ phận: một bộ phận được gọi là “thị trường trao ngay”, còn bộ phận thứ hai được gọi là “thị trường tiền gửi”

- Thị trường ngoại hối trao ngay là một thị trường vô hình, tại đó tập trung cung cầu về ngoại tệ, có nghĩa là không có một phòng riêng biệt dành cho các nhà giao dịch gặp gỡ nhau, song mọi giao dịch được thực hiện qua các phương tiện giao dịch khác nhau. Trên thị trường ngoại hối trao ngay, giải quyết vào mọi thời điểm tất cả các giao dịch mua bán ngoại tệ theo một giá hoàn toàn chỉ do cung và cầu ngoại tệ quyết định.

- Thị trường tiền gửi. Đây là nơi tiến hành tất cả các hoạt động vay và cho vay bằng ngoại tệ với những thời hạn nhất định theo một khoản tiền lời thể hiện qua lãi suất. Do nội dụng hoạt động có tính chất chuyên môn hoá như vậy, nên các thành viên tham gia trong quá trình hoạt động trên thị trường ngoại hối cũng tương đối đặc biệt sự với những loại thị trường khác.

2.2.3. Các thành viên tham gia thị trường ngoại hối

Tuỳ theo những luật lệ riêng của mỗi nước qui định, thành viên tham gia thị trường ngoại hối có thể khác nhau, nhưng nhìn chung thường gồm những thành viên chủ yếu sau:

- Các Ngân hàng Thương mại. Các ngân hàng thương mại được phép tham gia thị trường với tư cách là trung gian được uỷ quyền, mọi giao dịch hối đoái không thường xuyên và thường xuyên đối với bản thân ngân hàng lẫn khách hàng của họ.

- Ngân hàng Trung ương. Cũng như các ngân hàng thương mại, ngân hàng truog ương cũng có khách hàng của mình và vì thế họ tham gia vào thị trường một mặt cũng để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, với tư cách là cơ quan giám sát thị trường trong khuôn khổ của pháp luật qui định, ngân hàng trung ương đóng vai trò kiểm soát (kể cả bảo vệ) tỷ giá đồng tiền của mình là chủ yếu.

Để thực hiện điều này ngân hàng trung ương sử dụng dự trữ ngoại tệ theo nguyên tắc tăng dự trữ lên khi đồng tiền trong nước được đầu cơ tăng giá và giảm dự trữ khi

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 16/07/2022